Tại sao kế hoạch hóa gia đình tự nhiên khác với ngừa thai
Năm 1998 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết một bức thư gửi đến Tiến sĩ Anna Cappella, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Khảo sát về Điều hòa Sinh sản Tự nhiên của Đại học Công giáo Thánh Tâm của Rôma. Bức thư được viết nhân một hội nghị kỷ niệm 30 năm Thông điệp Sự sống Con người (Humanae Vitae) của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành vào năm 1968. Dưới đây là trích đoạn của bức thư:
Tôi hy vọng rằng mọi người sẽ được giúp ích từ một nghiên cứu sâu hơn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính chân thật của cử chỉ yêu thương trong đó những người phối ngẫu trở nên những người dự phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Tính chân thật của cử chỉ này xuất phát từ việc nó là biểu hiện của sự trao hiến cá nhân cho nhau của những người phối ngẫu, sự trao hiến chỉ có thể hoàn toàn vì nhân vị nên một và không thể phân ly. Trong hành động biểu lộ tình yêu của họ, người chồng, người vợ được mời gọi hãy trở nên quà tặng của chính mình cho nhau trong toàn thể nhân vị của họ: không có phần nào trong cuộc sống của họ có thể bị loại trừ khỏi quà tặng này. Đây là lý do cho tính bất hợp pháp tự bản chất của việc ngừa thai: nó giới thiệu một giới hạn đáng kể trong sự trao hiến cho nhau này, phá vỡ “mối liên kết bất khả phân ly” giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng, kết hợp và truyền sinh, điều mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã chỉ ra, được chính Thiên Chúa khắc ghi vào bản chất của con người (HV, số 12).
Tiếp tục vấn đề này, Đức Giáo Hoàng vĩ đại đã nhấn mạnh một cách đúng đắn sự “khác biệt chính yếu” giữa ngừa thai và sử dụng các phương pháp tự nhiên trong việc thực hiện “sinh sản có trách nhiệm”. Đó là sự khác biệt về nhân chủng học bởi vì trong những phân tích chung cuộc nó bao gồm hai khái niệm đối lập về con người và tính dục con người (x. Familiaris Consortio, số 32).
Không có gì là bất thường trong suy nghĩ hiện nay về các phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên được tách ra từ chuẩn mực đạo đức đúng đắn của chúng và được xem xét trong khía cạnh đơn thuần chức năng của chúng. Không có gì đáng ngạc nhiên khi người ta không còn cảm nhận được sự khác biệt sâu xa giữa các phương pháp tự nhiên và các phương pháp nhân tạo. Hậu quả là họ đi quá xa khi nói về chúng như thể chúng là một hình thức khác của sự tránh thai. Nhưng đây nhất định không phải là cách chúng có thể được hình dung hay áp dụng.
Ngược lại, nó không những là quà tặng hợp lý cho nhau giữa người nam và người nữ mà còn là sự điều hòa sinh sản tự nhiên có thể được hiểu một cách đúng đắn và sống đích thực như là biểu hiện thích hợp của sự hiệp thông thật sự và lẫn nhau của tình yêu và sự sống. Thật đáng giá để lặp lại ở đây rằng: “con người không bao giờ có thể được xem như một phương tiện đi đến cùng đích, trên hết không bao giờ là phương tiện của "khoái lạc". Con người là và phải là không gì khác hơn sự kết thúc của mỗi hành động. Chỉ khi đó thì hành động mới tương ứng với phẩm giá đích thực của con người.
Giáo Hội nhìn nhận các khó khăn khác nhau mà các cặp hôn nhân có thể gặp phải, nhất là trong bối cảnh xã hội ngày nay, không những trong việc tuân thủ mà còn trong những hiểu biết về chuẩn mực đạo đức liên quan đến chúng. Như một người mẹ, Giáo hội gần gũi với các cặp vợ chồng trong khó khăn để giúp đỡ họ, nhưng Giáo hội làm điều đó bằng cách nhắc nhở họ rằng con đường để tìm ra giải pháp cho những vấn đề của họ phải đến từ sự tôn trọng hoàn toàn sự thật về tình yêu của họ. “Một hình thức bác ái cao siêu hơn cả là đừng tìm cách giấu diếm giáo lý của Chúa Kitô”, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhắc nhở (HV, số 29).
Giáo Hội làm cho những người phối ngẫu trở nên phương tiện của ân sủng mà Chúa Kitô hiến dâng trong sự cứu độ và mời gọi họ trông cậy vào chúng với sự tin cậy được canh tâm hơn bao giờ hết. Giáo hội khuyến khích họ đặc biệt cầu nguyện cho ơn Chúa Thánh Thần đổ tràn trong tim họ qua hiệu năng của bí tích đặc biệt nơi họ: ơn huệ này là nguồn mạch của năng lực nội tâm họ cần đổ đầy nhiều trách nhiệm trong sứ vụ của họ, bắt đầu bằng việc trở nên kiên định với sự thật của tình yêu hôn nhân. Đồng thời, Giáo Hội khẩn thiết yêu cầu sự dấn thân của các nhà khoa học, các bác sĩ, những nhân viên mục vụ y tế giúp các cặp vợ chồng kết hôn tất cả những hỗ trợ nhằm minh chứng cho sự ủng hộ thật sự để giúp đỡ họ hoàn toàn sống đúng với ơn gọi của mình (x. HV, số 23 – 27).
Nguyễn Trung Tú biên dịch