Tình Yêu & Hôn Nhân - Chương Năm: TÌNH YÊU VỢ CHỒNG

Tình Yêu & Hôn Nhân - Chương Năm: TÌNH YÊU VỢ CHỒNG

Tình Yêu & Hôn Nhân


EQUIPES NOTRE-DAME - ITALIA

Chuyển ngữ: Lm. Louis NGUYỄN ANH TUẤN
Trích từ sách: TÌNH YÊU & HÔN NHÂN

ỦY BAN MỤC VỤ GIA ĐÌNH/ HĐGMVN

Chương Năm: TÌNH YÊU VỢ CHỒNG


1. Một giao ước “trung thành mãi mãi”
2. Tình vợ chồng
3. Một tình yêu với dự phóng chung
4. Một tình yêu trung thành và tự do
5. Chiều kích xã hội
 

1. Một giao ước “trung thành mãi mãi”
Tình yêu vẫn luôn là nguồn mạch và là cùng đích của quan hệ lứa đôi, và bởi đó, không có tình yêu người ta không thể nói gì về hôn nhân, về đời vợ chồng. Trong nền văn hóa hiện đại tình yêu giả thiết phải có để có sự nhìn nhận xã hội của đôi bạn kết hợp theo hôn nhân dân sự (ch.VI). Tình yêu là căn bản của bí tích hôn nhân kitô giáo (ch. VII).
Tình yêu đôi lứa đã được nói đến trực tiếp trong Cựu ước trong vài bản văn ít ỏi nhưng rất tuyệt diệu: bản về tạo dựng trong sách Sáng thế, và bản về bài ca tình yêu thiết tha trong sách Diễm tình ca. Bối cảnh mà dân Israel sống lúc bấy giờ không thuận tiện để nói về tình yêu nam nữ. Bởi lẽ đối với họ điều cốt yếu là vấn đề sinh sản để bảo đảm duy trì nòi giống và sự sống còn của cộng thể, để đạt được mục đích ấy họ làm bằng nhiều cách để hợp thức hóa các việc như hôn nhân nội tộc (endogamy), tục đa thê, sống chung không cưới xin, ly dị.
Thế nhưng ngay cả bên trong gia đình theo tục đa thê thực tại tình yêu đôi lứa không phải hoàn toàn bị quên lãng. Dù trong bối cảnh như thế, đã có nhiều cặp trong Israel sống thực sự cái kinh nghiệm cao cả của tình yêu và rồi với kinh nghiệm đó họ có thể bộc lộ ý định của Thiên Chúa về đôi bạn. Hướng về lý tưởng này Israel sẽ tiến hành trên hai bình diện phong hóa và tư tưởng, ngày càng vững chắc hơn và nhất là tiến gần đến Tân ước.
Phải là kinh nghiệm tình yêu đôi lứa cao nhất mới có thể làm biểu trưng cho tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài và đối với toàn thể nhân loại. Một mạc khải như thế quả thực có cách diễn tả của nó đầy đủ hơn và hiệu quả hơn chính nơi hình ảnh về giao ước và tình yêu hôn nhân.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đúng là đề tài trung tâm của toàn thể mạc khải của Cựu và Tân ước, điểm đến của lịch sử cứu độ. Nhưng để đạt tới mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho con người và ý định hiệp thông yêu thương với tất cả mọi người, dân Do thái phải trải qua một hành trình rất dài. Đó là cuộc hành trình mà khởi đầu, bởi sáng kiến riêng của Giavê, là lời hứa với Abram và ban tặng giao ước với dân Do thái tại Sinai; kế đến là những bất trung liên tục của dân Chúa khi trải qua thử thách và những dấu chứng không dứt của lòng trung thành của Giavê; để đi đến khúc ngoặt của một mạc khải lạ thường nhất, nhờ qua các tiên tri: Tình yêu Thiên Chúa sẽ trung thành mãi mãi, sẽ chuyển hóa con tim nhân loại và khiến họ có thể đáp trả trọn vẹn; sự hiệp nhất yêu thương với Thiên Chúa, là giao ước mới, sẽ trở thành dứt khoát và vĩnh cửu. Giao ước đó sẽ được thực hiện hoàn hảo trong Đức Kitô Giêsu và thời gian sau Người, tức là thời của chúng ta, sẽ là thời để hoàn tất.
Sự trung thành dứt khoát và tuyệt đối mà mỗi đôi bạn được mời gọi hướng tới, đối với con người là không thể làm được nếu không có một can dự trực tiếp của Đức Chúa. Can thiệp đó sẽ có cho ta, như đã có với biến cố Đức Kitô. Cùng với Người toàn thể nhân loại bước đi hướng tới mức viên mãn của hiệp thông với Thiên Chúa. Với Người mỗi cặp bước đi để trở thành cặp đôi yêu thương trung thành. Đó là yêu cầu đối với mọi tình yêu đôi lứa, như đôi bạn nguyên thủy.


2. Tình vợ chồng
Vợ chồng, theo nghĩa thông thường, là một đôi bạn yêu nhau ở trong một hoàn cảnh ổn định; một sự ổn định mong đợi (chứ không hàm ý phẩm chất của tương quan hiện tại) bởi đôi bạn đã tuyên bố cách công khai như thế. Theo nghĩa cốt yếu hơn, tình vợ chồng là một phẩm chất của tương quan được xây dựng bởi nhiều chiều kích không thể chỉ giản lược vào sự bền vững trong thời gian.
Thật vậy, là vợ chồng, nói tóm lại, có nghĩa là: yêu nhau một cách chín chắn với ý hướng và thái độ đối với nhau như độc hữu, trọn vẹn, ưu tiên; từ tình yêu ấy có một dự phóng chung, trung thành với nhau nhưng đồng thời tôn trọng và vun trồng tự do của nhau; đảm nhận trách nhiệm chung trong tình yêu đối với nhau cũng như trong các tương quan gia đình và xã hội.
Theo nghĩa đó thì tình vợ chồng hay đời hôn nhân là đòi hỏi sâu xa nội tại trong mọi quan hệ đôi lứa yêu nhau.
Đôi bạn hạnh phúc say đắm trong sách Diễm tình ca sống tình vợ chồng một cách hết sức tự nhiên, bột phát, say mê, như một đòi hỏi tinh ròng của tình yêu, dù không thấy trình bày hết mọi chiều kích của hôn nhân ở đó. Lời bạt của bài tình ca ấy là một viên ngọc nhỏ:
“Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh,
như chiếc ấn trên cánh tay anh.
Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần,
cơn đam mê dữ dội như âm phủ.
Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, 
một ngọn lửa thần thiêng.
Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, 
sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp.
Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể” (Dc 8,6-7).
Ở đây người ta ca ngợi tình yêu, chung thủy vượt qua cả cản ngại tử thần, tình yêu tuyệt đối, độc hữu, ưu tiên; tôn vinh đặc tính thần thiêng của tình yêu: cái vĩnh cửu đi vào lịch sử và lịch sử mở lòng trước vĩnh cửu. Tình yêu đó biểu hiện qua sự trao hiến hoàn toàn đóng ấn vĩnh viễn tình yêu trong sự duy nhất thuộc về nhau, điều không thể bị gãy vỡ kể cả bởi cái chết: tình yêu mãnh liệt như ngọn lửa bừng cháy không thể dập tắt của Giavê; cưỡng lại mọi nghịch cảnh (“nước lũ”), nghĩa là, chống lại mọi thử thách và khó khăn lớn của lịch sử chung cũng như riêng; tình yêu thì vượt trên mọi lợi lộc có thể để trao đổi mua bán.
Mọi đôi bạn tình trải qua kinh nghiệm hạnh phúc của mối tình đầu đều phóng chiếu hạnh phúc tỏ tường này vào tương lai. Nhưng để cho hạnh phúc được kéo dài và triển nở tới mức viên mãn, tình yêu cần được gầy dựng cho chín dần, được làm cho sâu sắc, phong phú bởi những chiều kích khác nhau. Một tình yêu chín chắn cần phải có thời gian; cần qua một đoạn đuờng dài tìm kiếm trong nhẫn nại và cùng làm việc. Tình yêu ấy chỉ có thể triển nở dần trong một hoàn cảnh đặc biệt, đó là đời vợ chồng, mà căn bản có những đặc tính cốt yếu sau đây:
- Ổn định và kéo dài: là điều kiện để có thể có tăng trưởng và tiến hóa, cho dù sự ổn định và thời gian tự chúng là nghèo nàn; cũng như mỗi người trong đôi bạn không bao giờ ngưng tăng trưởng nhưng tự thực hiện và tự thành trong thời gian, cũng thế lịch sử của một tình yêu không bao giờ ngưng tự xây dựng; nó cần phải có thời gian dài để đạt tới mức trưởng thành; cần chính sự ổn định và kéo dài.
- Duy nhất: trong tình yêu vợ chồng tính duy nhất và quí trọng người bạn đời, cũng như ưu tiên tuyệt đối cho người ấy là rất có ý nghĩa. Người bạn đời là người không thể thay thế, không thể quên lãng, yêu quí nhất, nguồn vui lớn (Dc 6,8-10).
- Trọn vẹn: Tình vợ chồng lôi cuốn toàn thể hữu thể ta và toàn thể hữu thể của người kia: trí, hồn, xác, ham muốn, nhu cầu; quá khứ và tương lai, dự phóng và hành động; bóng tối và ánh sáng; ưu điểm và khuyết điểm; khắc vào nơi sâu kín, biến đổi đời sống, người yêu biến đổi, kẻ được yêu cũng biến đổi.
- Ưu tiên: Tương quan vợ chồng ở nền tảng trở thành tương quan ưu việt trong trách nhiệm và so với các tương quan khác: công việc, con cái, bạn hữu, hoạt động xã hội, giáo hội và chính trị.
Những đặc tính trọng yếu khác, đặc biệt đối với thời đại ngày nay, sẽ được xét tới sau đây: 
- dự phóng chung: trên cơ sở những giá trị và thang giá trị, khi hình thành một dự phóng chung đôi bạn ý thức rằng để tình yêu được tròn đầy cần một tương lai dài lâu;
- sự chung thủy: tình yêu đòi hỏi phải chung thủy để có thể trải qua tất cả những giai đoạn đi tới trưởng thành; không phải là trung thành với dây ràng buộc, theo nghĩa là không gây ra đổ vỡ, nhưng là trung thành với tình yêu nối kết, cố gắng chọn lựa lại mỗi ngày để xây dựng một quan hệ bền vững và sâu đậm;
- tự do: nếu người ta thực sự muốn ở lại trong tình yêu, tương quan sẽ phải trở nên ngày càng tự do và có sức giải thoát con người hơn, có trách nhiệm giúp nhau thực sự tăng trưởng.
- mở ngỏ với sự sống: đôi vợ chồng trao ban sự sống cho một thực tại mới ở ngay giữa những con người của thời đại mình đang sống quanh mình; nhờ đó đôi bạn bước vào tương quan với bối cảnh xã hội nơi họ đang sống để trao ban sự sống tình yêu phong phú của họ.


3. Một tình yêu với dự phóng chung
- Kế hoạch của Thiên Chúa về đời đôi bạn là một chương trình cứu độ và đưa tới viên mãn. Nhưng nó được định để thực hiện trong thời gian và trong lịch sử, trong cái khung dệt đời sống thường ngày, ở đây và lúc này (hic et nunc) của riêng đôi bạn này. Mỗi một cặp vợ chồng, trong cái nét riêng biệt của họ, có trách nhiệm khám phá ra kế hoạch này, nội tâm hóa nó và đưa nó vào chính cuộc sống của mình.
Các đôi bạn nói:
“Kế hoạch của Thiên Chúa trên con người và trên các đôi vợ chồng là một kế hoạch mở; Ngài để cho con người được tự do và làm cho con người tự do. Mỗi người, mỗi đôi bạn có nhiệm vụ thực hiện kế hoạch ấy trong đời sống hàng ngày. Thực hiện kế hoạch ấy như thế nào là do ở chúng ta. Điều đó giống như chúng ta phải dựng một bức tranh, thật đẹp, màu sắc và hình ảnh có thể dùng để phối hợp mà vẽ nên là vô số.”
“Có phần của Thiên Chúa, nhưng cũng có phần dành cho sáng kiến độc lập của con người, dành cho các khả năng và sự sáng tạo của con người.”
Nhưng làm thế nào để họ đưa kế hoạch ấy của Chúa vào đời sống? Làm thế nào để họ bước đi trên con đường rất hấp dẫn này mà không để mình bị cám dỗ dễ dãi quá chạy đua hay hoàn toàn dừng lại?
Đời sống cốt yếu hướng về tương lai, vốn là một chiều kích thiết yếu của cuộc sống con người. Cái ta chỉ mới thấy thấp thoáng có thể xảy ra, nhưng chưa xảy ra, có thể được thực hiện trong tương lai. Có một con đường để đi tới sự thành tựu. Điều đúng cho mỗi người cũng đúng cho mỗi đôi vợ chồng.
Ý định của Thiên Chúa là Ngài đã muốn tạo thành như là một tiến trình liên tục tiến hóa, một tạo thành mở, chưa hoàn hảo, nhưng có thể làm cho hoàn hảo. Quyền năng sáng tạo của Ngài ở tại cái gốc của tiến trình này. Ngài vẫn yêu thương hằng đồng hành với nó. Phần con người là tiếp nối, cộng tác vào tiến trình sáng tạo đó đưa nó đến thành tựu. Thực tại hôn nhân cũng liên hệ đến quá trình tiến hóa này. Khi bắt đầu một chuyện tình, dù người ta có ý thức hay không ý thức, dù tin hay không tin, cũng đều luôn luôn có quyền năng Thiên Chúa hoạt động và thúc đẩy hướng tới một sự hiệp thông ngày càng vẹn toàn hơn. Bởi thế, tương quan vợ chồng, nhờ sức mạnh của sự kiện sáng tạo, tất yếu khát khao được triển nở đạt tới mức trưởng thành của tình yêu, hướng tới thành một bí tích trọn vẹn hơn.
Hành trình này cần có một động hướng (tension) nền tảng đảm nhận lấy tương lai như là khả năng thực hiện cuộc hôn nhân của mình ngày càng luôn trọn vẹn hơn. Cần có ý thức về thời gian, tiến trình, sự kiên nhẫn, tin tưởng hy vọng. Cũng cần có ý thức về sự mỏng manh và cái thường nhật đang qua đi, vì chính trong hiện tại mà những khả năng được mở ra cho tương lai. Bởi thế, cần thiết mở lòng để lắng nghe và sẵn lòng để được thay đổi. Một đôi bạn mà khép kín phản vệ đối với mọi khả năng thay đổi, không mở ra với tương lai, không có khả năng dự tính tương lai, sẽ không là một đôi bạn trăm năm đúng nghĩa.
Đôi bạn phải giữ vững cái động hướng về tương lai ấy bằng một sự dấn thân chung, nhờ thế họ mới đáng tin cậy. Một cách cụ thể, họ cần phải cùng nhau khao khát, tìm kiếm, thực hiện cuộc hành trình hướng đến viên mãn, cùng nhau thẩm định và sửa chữa, bằng cách biểu lộ hết sức sáng tạo của mỗi người để cho một sáng tạo chung.
Rõ ràng đó là một chọn lựa sống, một chọn lựa trách nhiệm, người ta không tự hỏi nhiều mình đã bắt đầu như thế nào cho bằng là mình đã sẵn sàng hay chưa đón nhận một tương lai như là đôi vợ chồng lý tưởng, và cùng dấn thân thực hiện để cái tiềm thể trở thành hiện thực.
- Đôi bạn đứng trước dự phóng
Xu hướng của nhiều người chỉ tập trung lo toan cái hiện tại đang là nguyên nhân của tình trạng mất định hướng sống. Không có hay không tìm những giá trị nhất định để mà sống mà chỉ nhặt nhạnh cái hôm nay phù phiếm, họ thiếu đi một cảm hứng sống, và như thế dễ đâm ngã lòng, phiền muộn.
Nhiều đôi bạn khác, trái lại, đã thấy được sự cần thiết của một định hướng, một ý nghĩa sống và do đó, cần một dự phóng cho cuộc đời. Rất đơn sơ người ta nói: “Cần có những ý nghĩ chung về dự phóng tương lai thế nào”. Họ hiểu rất rõ rằng cùng chia sẻ một dự phóng hôn nhân để mà thực hiện và tái hiện nó không ngừng là cách thức nền tảng để tăng trưởng. Thế nhưng, ta cần làm sáng tỏ cái khái niệm dự phóng vốn mập mờ, phổ biến và cũng tạo ra lắm vấn đề, cả trong lãnh vực tâm linh. Sau đây là vài xác định ích lợi:
- Kế hoạch của Thiên Chúa ở thượng nguồn của dự phóng con người. Chỉ có thể nói về dự phóng của ta khi ta có ý thực hiện kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa, nghĩa là, để cho kế hoạch thần linh nhập thể vào những dự phóng của con người. 
“Dự phóng con người là dự phóng định hướng theo và là lời đáp trả cho kế hoạch cơ bản, hoàn hảo và vĩ đại hơn vô cùng của Thiên Chúa.”
Như thế, hôn nhân được hiểu như là ơn gọi mà cả đôi lứa cần đáp trả như là mỗi cá nhân cần đáp trả tiếng gọi phổ quát hướng đến tình yêu. Như Abram, đôi bạn được mời gọi đi ra khỏi bản thân mình để đến gặp gỡ lời hứa.
“Kế hoạch của con người là lời đáp trả cho một tiếng gọi thực hiện ý định nguyên thủy của Thiên Chúa. Còn những gì thuộc về ý định ấy cần phải biết, đó là cả vấn đề phức tạp hơn; và chính khi tiến bước mà đôi bạn có thể khám phá ra điều ấy.”
- Không “lập trình” cho cuộc sống, lại càng không lập trình cho tình yêu. 
“Mọi kế hoạch, dù ngắn hay dài hạn, dường như thường hay bị đảo lộn bởi những cái bất ngờ ngoại tại: Tôi muốn có nhiều con và hơn nữa còn muốn có một việc làm thực tế với ít nhiều uy tín. Nhưng thực tế rất khác với những dự định của tôi và của chúng tôi.”
“Chuyện tình yêu cũng vậy. Lịch sử một tình yêu cũng thường phụ thuộc vào những biến cố bên ngoài mà chúng tôi đã không hề dự trù trước. Ngược lại, chính chúng chất vấn chúng ta và khơi dậy trong chúng ta một sự hoán cải liên tục.”
“Chính trong khi sống ta khám phá ra những không gian sống mới; chính trong khi sống ta được mở ra những con đường mới.”
- Điều cốt yếu không phải là thực hiện một kế hoạch cụ thể (những quyết định phải làm về nhà cửa, con cái, việc làm, hoạt động xã hội, vv...) mà tiến bước với một dự phóng chung hướng tới sự “vận hành” đức tin của chúng ta. Chính vì đời sống, cá nhân và đôi bạn, tăng trưởng, chúng ta cần phải nhìn lại trong đức tin. Chúng ta sẽ đi trong đường hướng hiện hữu hơn là “làm” được một cái gì bề ngoài.
- Nội dung của dự phóng không hệ tại nơi ta “làm” một cái gì (doing), nhưng nơi ta “hiện hữu” (being).
Đó là phẩm chất của cuộc sống lứa đôi, đó là kiểu tương quan mà ta muốn thể hiện. Chỉ điều đó mới đáng là nội dung của kế hoạch sống hôn nhân và bởi thế người ta thích nói về những điều này hơn, như là: “thái độ sống có định hướng”, “mục tiêu chung”, “viễn tượng”, “các giá trị”, “lý tưởng chung”, “lối sống chung”, theo hướng đó đôi bạn thể hiện mình. Điều có ý nghĩa là một cuộc sống đang chờ đợi và đòi hỏi được hiện thực hóa, một lý tưởng mà đôi bạn nhắm tới phải được diễn tả ra nơi cuộc sống cách cụ thể, nghĩa là phải được hiện thân.
- Có lẽ cần thiết có một ý tưởng và một ý muốn chung về cách thế sống đời đôi bạn. Chính trong những lúc khủng hoảng người ta cần tìm những mục tiêu cơ bản chung từ đó mà bắt đầu xây dựng lại. Thế nhưng thực tế mà nói ta nhận thấy những mục tiêu cơ bản chung ấy thường không có hay có mặt nhưng nhạt nhòa và mơ hồ. Trái lại chỉ thấy toàn những cách sống, không ý thức, chạy theo những mục tiêu qui định bởi xã hội tiêu thụ, hoặc những mục tiêu chỉ biết lặp đi lặp lại các mẫu truyền thống cứng nhắc; hoặc những mục tiêu riêng không bao giờ chia sẻ và được một mình cá nhân đeo đuổi, không làm phiền mà cũng không muốn bị ai làm phiền: đó là những dự phóng cá nhân có thể là “kềnh càng” cho cá nhân cũng như cho cả hai.
- Những dự phóng ban đầu quá yếu hay quá mạnh đều nguy hiểm như nhau. Kinh nghiệm cho thấy không cần khởi đầu với những ý tưởng quá cao về cách thức sống đời đôi bạn: 
“Một lần chúng tôi đã lên rất nhiều dự án: dự án về nhà cửa, xe cộ, kế hoạch nghỉ hè, dự án chỉ đầu tư vào một mục tiêu thỏa mãn nhu cầu vật chất. Chúng tôi đã cảm thấy mình bị nhiều người vượt qua và muốn chạy đua cho ngang bằng họ. Triết lý của chúng tôi bấy giờ là: không để cuộc sống mình mất một giây phút nào cả. Giờ đây chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi đã làm việc và đã không đầu tư vào một dự phóng nào thật sự nhân bản hay tâm linh, và dần dà chúng tôi nhận thấy rằng những kế hoạch của chúng tôi rốt cuộc có thể hướng sang những mục tiêu khác.”
Khi còn trẻ người ta có nhiều dự phóng hơn.
“Khi còn đang thời gian đính hôn chúng tôi đã lên nhiều kế hoạch. Khi đã lấy nhau chúng tôi cùng tiến hành, với đôi khi có những đoạn đường cô đơn bên lề con đường chung, nhưng không bao giờ hoàn toàn mất dấu nhau. Dự phóng cao cả mà chúng tôi đã làm không gì khác hơn là kết hôn với nhau trong Chúa: đó là một dự phóng rất to tát nhưng với ít chi tiết cụ thể, hình thức có thể thay đổi, gần như là không có dự phóng nào cả. Và sẽ thật vô phúc nếu như chúng tôi đã thực hiện được một kế hoạch nào là của chúng tôi. Nhiều điều đã làm chúng tôi thay đổi: con cái, tuổi tác, sự ra đi của những người thân yêu, những cuộc gặp gỡ mới, những đổi thay không biết trước của thế giới và những nhu cầu về ý nghĩa thay đổi do hoàn cảnh thay đổi. Tình nghĩa vợ chồng phát sinh từ chỗ cùng nhau sống những đổi thay, cùng nhau quên đi những kế hoạch có khi hơi trí thức và viển vông một chút, những điều ấy đã nối kết chúng tôi.”
- Và cuối cùng cũng nên lưu ý đến những khó khăn:
“Dễ hoạch định những kế hoạch cá nhân hơn là kế hoạch cho hai người, nhất là khi có những đòi hỏi khác nhau: người này thì sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn; người kia thì cứ hoạch định hết chương trình này đến chương trình khác.”
“Không dễ gì thực hiện được liên tục những dự phóng riêng trong một dự phóng hôn nhân mở ngỏ, luôn phải làm mỗi ngày một sáng tỏ hơn, chính xác hơn. Có lẽ sẽ không thể thực hiện được nếu không có một đức tin mạnh mẽ, nếu không cùng nhau tìm kiếm, đối thoại tích cực.” “Thiếu trao đổi trong lãnh vực này sẽ nguy hiểm, dễ đưa tới chỗ đánh mất ý nghĩa đời sống đôi bạn.”
Giữa hoài bão và thực tế
Trở nên đôi bạn đời hàm nghĩa một tiến trình dài lâu. Trong đó, người ta phải chấp nhận và đảm nhận cách khiêm tốn sự nghèo nàn của hai người chưa toàn hảo, thường có nhiều giới hạn, có khi có thể bị sa ngã và thoái hóa. Hai người phải chấp nhận nền văn hóa khác biệt ban đầu của nhau, thường được đón nhận và định vị cách khó khăn. Họ cũng phải, với cố gắng và một cách thông minh, đối diện với những giai đoạn khủng hoảng, gần như tất yếu phải có nhưng tiềm ẩn nhiều sức sống mới.
Nếu quả thật điều này đúng, cái khuynh hướng không phải là hiếm về việc người ta đề ra những mục tiêu quá cao đối với sức riêng mình là một nguy cơ khá nghiêm trọng cản trở sự gặp gỡ và đón nhận thực tế và cả cái khả năng can thiệp vào thực tế nhằm làm cho nó thăng tiến. Một nguy cơ nữa cũng nghiêm trọng không kém, đó là tình thế ù lì bất động phó thác cho sự ổn định chỉ hình thức của dây liên kết hôn phối.
Cũng phải giữ cho kiên định mối tương quan với thực tại nhân văn nơi ta sống (nhập thể): chính đó, chứ không ở đâu khác, là mảnh đất mà ta có thể xây dựng, chính đó là nơi chúng ta như là một kẻ tin có thể hiểu được những đòi hỏi của Lời Chúa dành cho chúng ta; chính ở đó chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng đồng hành và tạo nên lịch sử với chúng ta.
Cứ như thế đôi bạn tương lai mà ta hướng tới sẽ không bao giờ là một lý tưởng quá xa vời thực tế khiến không thể trở nên men tăng trưởng cho cuộc sống thường nhật. Một đôi bạn nói: «Trong cuộc sống, dẫu có nhiều dự phóng tham vọng, chúng ta cần phải luôn luôn nhìn thẳng vào những giới hạn của mình. Nếu không ta sẽ luôn lâm vào khủng hoảng với chính mình».
Bởi thế, viễn tượng tương lai mà ta đang tiến bước cần phải được đối diện trong sự trung thành với hiện tại, điều đó có nghĩa là cần có hiểu biết và tôn trọng cách trìu mến đối với thực tế hiện tại của đôi bạn, làm sao để đôi bạn có thể tiến bước ngay trong hiện tại trên lộ trình rất riêng của mình. Nói tóm lại, vấn đề không phải là trở nên đôi vợ chồng lý tưởng nhưng không tưởng, như một đôi mẫu trừu tượng, mà trở thành một đôi trong tầm mức đạt tới được.
Như thế thách thức mà mỗi đôi bạn gặp phải sẽ là họ phải không ngừng tìm kiếm con đường riêng cho mình, trong sự trung thành với thực tế hiện tại, trên đó Thiên Chúa của lịch sử cứu độ và viên mãn đang chờ đợi ta và đồng hành với ta. Chúng ta sẽ nhận liên tục từ Ngài một sức đẩy tích cực, dẫu biết rằng vẫn còn đó những băn khoăn và cảm giác tội lỗi, nhưng cũng từ đó người ta vẫn có thể đưa ra những lý do thoái thác quá dễ dãi.


4. Một tình yêu trung thành và tự do
“Giữa hai chúng tôi có những giai đoạn sự trung thành là thực chất và sâu xa; nhưng cũng có lúc sự trung thành chỉ mang tính hình thức.”
“Trong những thời kỳ khó khăn chính sự trung thành nâng đỡ mối quan hệ và khơi gợi những bước đi đúng đắn. Nhưng có khi ngoài những khó khăn gặp phải ta còn mất cả phương hướng. Chính lúc ấy sự trung thành có nguy cơ đi vào khủng hoảng.”
“Những bất trung của chúng ta đặc biệt được làm nên bởi những thờ ơ, những hời hợt, những khiếm diện.”
“Đôi khi cuộc sống hằng ngày bắt chụp trên chúng ta: chiều về ta cảm thấy mệt mỏi, một ngày làm việc trôi qua mà không hề có một ý nghĩ mạo muội nào về Chúa, không hề trao đổi với ai một nụ cười, một ôm hôn, một cái vuốt ve trìu mến. Những lúc đó, chúng ta thấy mình trống trải và có thể phản bội lại dự phóng yêu thương của chúng ta, cho dẫu ta đã và vẫn còn trung tín với nhau theo nghĩa hiển nhiên.”
“Không phải lúc nào chúng tôi cũng đều cùng ý thức trách nhiệm chung về mối quan hệ. Chúng tôi tạ ơn Chúa vì ít nhất còn một trong hai người luôn tỉnh thức, giữ cho ý thức luôn tỉnh táo trước tình trạng sức khỏe của mối tương quan… Tôi rất muốn ít là người ta làm được như thế luân phiên.”
Như mọi tiềm năng của con người cần thời gian để chín, sự hiệp thông cũng đòi hỏi thời gian để thực hiện. Thế nhưng với thời gian, sự quan tâm chăm sóc nhau có thể bị suy yếu đi, không còn nhiều khả năng bị bất ngờ bởi những cái mới mẻ và tò mò như xưa, cái thường nhật trở thành đều đặn, máy móc, cũ mòn, vô cảm, sự trung thành của đôi lứa rơi vào trạng thái “mất cảm giác” nặng nề. Đời sống là thế, đối với ai cũng vậy. Nhưng sự trung thành vẫn tiếp tục là câu trả lời khả dĩ duy nhất.
- Sự chung thủy ngày nay ít được nghe nói tới.
Sự chung thủy của đôi bạn sẽ đánh mất cái động lực sâu xa nhất nếu họ không có viễn tượng hay những giá trị nào đó để đảm nhận lấy mà sống cho tương lai. Sự chung thủy ngày nay đang bị khủng hoảng. Ngập chìm trong một bầu khí quyển tiêu thụ nói chung. Mọi quan hệ có xu hướng bị tiêu dụng nhanh chóng, kể cả quan hệ vợ chồng nhất là khi sự chung thủy lại phải đối đầu với một giá trị, được coi như hàng đầu, đó là tự do. Trong não trạng hiện nay dường như có một xung đột bất trị giữa hai giá trị tự do và tình yêu thủy chung. Nhiều đôi bạn trẻ yêu nhau, ý thức sự mong manh của tương quan tình yêu vợ chồng dẫu cho nó vốn hằng được mong đợi sẽ kéo dãi mãi mãi, thấy khó khăn trong quyết định dấn thân chính thức vào đời hôn nhân vĩnh viễn hướng tới sự trung thành với một định chế, với một nghĩa vụ đã mang lấy trong quá khứ. Trung thành không phải với một tương quan sống động đang tồn tại, nhưng trung thành chỉ với một vẻ bên ngoài, với một cái khuôn, với một định chế trống rỗng thiếu nội dung, kiểu trung thành này ngày nay không còn có thể tồn tại được nữa. Con người hôm nay thực tế hơn không chịu nổi một sự trung thành chỉ duy hình thức.
Sự trung thành xem ra có thể chấp nhận được ngày nay là trung thành trước hết với một con người: đó là người bạn đường, là tha nhân của tôi. Một con người toàn thể, trong mầu nhiệm là-thọ-tạo-của-Thiên-Chúa của nó, trung thành với người ấy như những gì người ấy là và như những gì người ấy được tiền định trở thành. Thế đấy, trung thành với tha nhân ấy như một kinh nghiệm về siêu việt: “cái siêu hình của tôi là tha nhân” (E. Lévinas). Trung thành với tha nhân của tôi cũng là tin tưởng vào tương lai của người ấy: yêu ai có nghĩa là tin vào tương lai của người ấy. Đó cũng chính là sự trung thành của anh, của em, với cái chúng ta, với quan hệ yêu thương như chúng ta đang sống và như được Chúa mời gọi chúng ta sống. Là trung thành với ánh sáng của kế hoạch tự ban đầu của Thiên Chúa, theo những bước đi khắc ghi bởi một dự phóng mở, trên cơ sở những giá trị và chọn lựa căn bản chung. Đó là một sự trung thành với chính mình, với nhau, không chỉ trong những tiềm năng mỗi người đang mang, mà nhất là trong cái giá trị mà mỗi người có, như là nhân vị, như là con cái Thiên Chúa, dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Sự trung thành với chính mình này thể hiện ra trong mối lo lắng ưu tư để sống, để bảo tồn sự sống không chỉ cho bản thân, mà còn để làm cho tình yêu được sống, để cho và nhận cách dồi dào và mới mẻ luôn. “Người ta sẽ ngừng yêu nếu ngừng sống”. Như thế, đó là sự trung thành với tình yêu và với tương lai của tình yêu.
Trung thành thực sự khác hẳn với sự quyến luyến hơi bệnh hoạn của người không biết ở một mình, cũng như khác với trường hợp một người bảo hộ quá bao biện không để cho người kia một không gian riêng tư (ch. XI). Không phải là trung thành với dây ràng buộc hình thức của một giao kèo, theo nghĩa cố giữ “chữ tín” đối với lời đã hứa. Không phải là một sự trung thành hướng về quá khứ, dù cho có dựa trên các mẫu gương sống của cha ông chúng ta, nhưng hướng đến tương lai của tình yêu, hướng về ánh sáng từ cái nhìn duy thực về hiện tại; hướng đến sự hứa hẹn của tương lai nằm trong dự phóng tình yêu đang tiến triển không ngừng; hướng về cuộc sống mà từ đó tuôn chảy ra sự sống mới; hướng đến điều thiện, điều tốt hơn nữa nơi ta và nơi tha nhân, chúng còn phải biểu lộ ra và có thể sẽ biểu lộ ra nếu tiếp tục vun trồng niềm tin tưởng vào khả năng lớn lên của chúng. Chúng ta đã ra khỏi, xét về mặt văn hóa, kiểu trung thành với một khế ước không thể đảo ngược, để nhắm tới sự trung thành đối với một người mà ta đã chọn yêu; một người mà ta cần tái khám phá lại luôn và yêu với một tình yêu luôn luôn mới. Như thế, trung thành không chỉ là không phản bội, mà như là cái khả năng bắt đầu lại; không phải là sự lặp lại và thói quen, nhưng là khả năng tái tạo và có sáng kiến mới.
Thế đâu là những yêu sách của sự trung thành này?
- Một sự trung thành trong tin tưởng và hân hoan. Người ta không thể hiểu được một sự trung thành mà ở chiều sâu lại không có niềm tin tưởng vào tương lai. Thế nhưng trong mọi sự lớn hay nhỏ mà con người dấn mình vào cũng đều đòi hỏi sự trung thành và tin tưởng này để chúng có thể tiến triển và có một tương lai. Không có trung thành và tin tưởng những việc ta đảm nhận không phát huy được. Một người mà thiếu trung thành và tin tưởng, xét cho cùng, cũng không có niềm hy vọng vào tương lai. Sự trung thành nơi đôi bạn sẽ phải là trung thành trong tin tưởng và vui tươi: họ cùng tin tưởng vào một tương lai chung; tin tưởng vào tình yêu chung thủy của người bạn mình, người mà mình tin cậy phó thác hoàn toàn; tin tưởng hoàn toàn vào những khả năng có thể được phát huy và lớn dần đến sự trưởng thành của bản thân và của người bạn mình.
- Một sự trung thành tự do và đem đến giải thoát. Tin tưởng cũng là bầu khí cho sự trung thành tự do được nở hoa. Sự trung thành đích thực nhất đối với tình yêu, một tình yêu tự do và chỉ có thể sống trong tự do, chính nó cũng phải tự do và muốn người bạn mình cũng tự do trong sự thủy chung như vậy. Sự trung thành theo nghĩa trung thực sống theo lời mình đã nói hoặc vâng theo luật lệ hoặc bởi môi trường xã hội cần phải được tự nguyện đảm nhận, có lẽ có thể đứng vững và thậm chí có ích trong một thời gian, thế nhưng sẽ không sinh nhiều hoa trái nếu không trở nên tự do và nỗ lực làm cho bạn mình cũng tự do chung thủy với tình yêu. Một bạn gái nói:
“Tự do là chính ván cờ cuối cùng, là yếu tính đích thật của vấn đề hiện sinh.”
Một sự trung thành trong tự do cũng đem đến sự giải thoát. Thực vậy, vì nó có thể tạo nên một bầu khí thuận lợi cho mối tương quan giữa hai người, tương quan giúp cho cả hai thực sự tự do, nó đem đến tự do vì trao ban cho ta tự do. Khi ta sợ có đối kháng giữa tự do và trung thành, thực ra là ta đã hiểu sự tự do ấy chỉ như là một sự độc lập chứ không phải như là sự làm chủ mình đích thực, như là sự hoàn toàn làm chủ những xung năng bên trong của bản thân. Đây là một loại tự do rất căn bản và giàu sự sống của nguyên sự độc lập và như thế không dễ đạt thấu.
Một tương quan căn bản và cuối cùng, như của vợ chồng, bởi sự trung thành yêu thương và tin tưởng lẫn nhau có thể trở thành nguồn mạch của một sự giải phóng dần dần, cho bản thân và cho người bạn, khỏi nhiều giới hạn cá nhân và những hoàn cảnh nô dịch giam hãm sự trưởng thành và tự do thật. Bằng cách đó, đôi vợ chồng có thể vượt qua được một kiểu quan hệ có đối kháng bề ngoài giữa tự do và trung thành. Họ có thể tái thiết lại cái tác phẩm hình thành từ hai tiếng gọi lớn, và cũng mạnh mẽ như nhau, được cấy sinh trong mọi lịch sử tình yêu, tiếng gọi của tự do và tiếng gọi của trung thành, đồng thời nhìn nhận rằng tự do không phải là tự lập, nhưng là tiến trình giải phóng có thể dễ trưởng thành hơn nếu biết nhẫn nại đương đầu; và rằng trung thành không phải là trung thành với một luật lệ nhưng là trung thành với một chương trình sống của hai người giúp nhau trở nên ngày càng tự do hơn.
- Một sự trung thành tỉnh táo và tích cực. Trung thành là một thái độ nội tâm được biểu hiện ra qua những hành vi sáng kiến cụ thể. Ai trung thành thì không ngừng để ý chăm sóc đến mình và người bạn mình, và đến mối quan hệ. Với sự khiêm nhường và kiên nhẫn, họ không mệt mỏi tìm cách đối diện và chấp nhận đối diện, đề xuất sáng kiến và đi đầu trong việc triển khai thực hành, thẩm tra những sáng kiến ấy. Ai trung thành thì liên tục có sáng kiến dù lớn hay nhỏ trong đời sống thường ngày để gìn giữ mối quan hệ sao cho được sống động; biểu lộ ra qua cung cách cư xử và biết tạo bầu khí với hình thức nào đó mà những hoàn cảnh cụ thể khác nhau có thể gợi lên.
Ai trung thành trong cái thường ngày thì sẽ sẵn sàng trung thành ngay cả trong những lúc phải chọn lựa, dù riêng hay chung, trong những biến cố đau thương cũng như trong khủng hoảng.
Khủng hoảng: tình yêu liên tục trải nghiệm những khoảng tối khoảng sáng đan xen của con tim, có lúc tưởng chừng ta không còn yêu cũng như không còn được yêu nữa. Điều ấy có thể xảy ra cả trong thời kỳ trẻ trung và say mê của tình yêu giống như đôi bạn trong sách Diễm tình ca (Dc 5,2-8). Thế nhưng ai yêu thì biết rằng ta vẫn yêu cả khi không còn cảm thấy mình yêu. Cái bù đắp cho tình cảm nguội lạnh là chính tình yêu vốn lớn hơn cả những bất trung nghiêm trọng và dai dẳng nhất. Đúng hơn, qua những giai đoạn của bất trung, tình yêu có thể tăng trưởng và chín chắn dần. 
“Không phải hay sao chính sự đón nhận và tha thứ khi đối diện với bất trung lại là cơ hội mạnh mẽ cho sự trung thành?”
Vậy thì điều phải học là cái nghệ thuật trung thành, trong những lúc tăm tối, với những gì đã nhìn thấy khi còn bước đi trong ánh sáng. Quả là ngây ngô khi tin rằng tình yêu giàu cảm xúc là bảo đảm duy nhất của sự trung thành. Ngược lại, cái bảo đảm tốt hơn của tình yêu là chính sự trung thành với tình yêu ngay cả khi không còn thấy “cảm xúc” gì. Theo hướng đó thủy chung vợ chồng không phải là sự thủy chung cố tìm cách để giữ vững một mối quan hệ vốn không có, nhưng là một sự thủy chung biết đấu tranh để làm cho mối quan hệ đã bị nghẽn tắc được hoạt động, đấu tranh để tái tạo lại một hiệp thông đã đứt đoạn.
Sự chung thủy vợ chồng như thế sẽ có thể tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa, hiện diện sống động trong lịch sử của chúng ta, và trung thành vượt xa hơn mọi bất trung của chúng ta.


5. Chiều kích xã hội
Sự hợp thành đôi bạn không chỉ liên lụy đến hai người, hay liên hệ đến cha mẹ mà họ rời bỏ để tạo nên một gia đình hạt nhân mới, hay đến tất cả những ai có quan hệ, riêng hay chung, với họ. Sự hợp thành đôi bạn, từ lâu rồi và ở mọi nơi, còn liên hệ đến xã hội, vì xã hội can dự qua định chế hôn nhân để chính thức hóa sự khởi đầu của một đôi vợ chồng mới có tính bền vững, theo những điều kiện rõ ràng và hình thức thay đổi theo thời gian và không gian.
Về phần đôi bạn, một chọn lựa hôn nhân có nghĩa là có ý thức trách nhiệm về mặt chiều kích xã hội này của hôn nhân của họ, nhưng nhất là ý thức nhu cầu thâm sâu về sản sinh và vun trồng sự sống của tình yêu mở ra với xã hội sao cho thật sai quả. Làm thế với thời gian họ dần dần đưa tương quan của họ vào một không gian xã hội nào đó, nơi đó họ đảm nhận một trách nhiệm rõ ràng.
Đối với tình hình hiện nay trên bình diện chính trị và xã hội, xem ra thực tế về hôn nhân gia đình vẫn còn dấn thân hạn chế, chiều kích xã hội vẫn chưa được mở ngỏ. Trong nền văn hóa hiện nay có một giá trị mới và rất phong phú, đó là nhân vị được đặt ở vị trí trung tâm, nhưng giá trị đó còn phải được khám phá. Tuy nhiên, khi tập trung quá vào cái tự ngã, vào sự thỏa mãn những nhu cầu cá nhân hay những bận tâm riêng, người ta có khuynh hướng sẽ hạn chế tham dự xã hội và dấn thân vì lợi ích chung. Ngày nay thường xảy ra tình trạng là tập thể trở nên chỉ hoạt động vì lợi ích riêng của cá nhân. Và điều đó cũng xảy ra nơi các đôi vợ chồng và các gia đình.
Trong Thánh Kinh ơn gọi của đôi vợ chồng mang một viễn tượng khá lớn: xem St 1,28-31. Đoạn Thánh Kinh này đưa ra những nền tảng của chiều kích xã hội của đôi bạn: sinh sôi nảy nở và thống trị trái đất. Trong nền văn hóa thời kỳ nguyên thủy, đây là ơn gọi lớn của đôi bạn, được hiểu về mặt xã hội như là sức sống duy nhất cho sự sống còn và phát triển của toàn thể cộng đồng xã hội, của toàn thể nhân loại. Tình yêu bấy giờ chưa tỏ ra quan trọng đến như thế, cũng không thể được dễ dàng vun xới trong bối cảnh xã hội, một môi trường đôi khi chỉ quan tâm đến sự tồn tại. Tình yêu vẫn còn chưa phải là mối quan tâm hàng đầu trong bối cảnh ấy, nhưng đôi bạn được đặt trong một viễn tượng khá rộng lớn và gần gũi với cảm thức của con người ngày nay. Đôi bạn, con cháu của họ, những con người khác, toàn thể vũ trụ xem ra được nối kết, trong bản văn nguyên thủy, bởi một sợi dây khôn ngoan hài hòa.
Đã có bao nhiêu là gãy vỡ, thương tích trên cuộc hành trình lịch sử dài để có một tái hợp thực sự giữa người nam và người nữ, giữa hai người và ơn gọi hướng tới sự sống, giữa tất cả mọi người, giữa con người và trái đất! Lời loan báo mà Cựu ước khi khép lại và Tân ước mở ra là về sự sống, sự công chính, bình an, hài hòa, chúng có thể khai hoa kết trái nếu như những tương quan liên vị biết mở ra để được canh tân, tái tạo trong một tình yêu vô hạn, hoa quả trực tiếp của can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử. Đó chính là những gì tiên tri Hôsê muốn loan báo trong viễn tượng tiên tri của cuộc phối ngẫu mới, giao ước mới giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà hình ảnh của nó là đôi bạn (Hs 2,20-35).
Hình ảnh này có thể trở nên điểm tới ở chân trời cho cuộc hành trình của mỗi lứa đôi.
“Đối với chúng tôi, đời sống hôn nhân là sự trung thành trong tư cách đôi bạn cùng với những người khác, là trung thành với ý định vun trồng tình thân mật vợ chồng như là cội rễ của bộ mặt xã hội bên ngoài của hôn nhân. Chúng tôi nghĩ rằng làm đậm sâu thêm tình thân mật vợ chồng và đời sống tâm linh là nền tảng cho tương quan với mọi người khác, và để phục vụ cộng đoàn; chúng tôi nghĩ rằng làm đậm sâu thêm tình thân mật vợ chồng và đời sống tâm linh giúp chúng tôi có khả năng gần gũi hơn với những vấn đề và lý lẽ của người khác, có thể đáp ứng nhu cầu gần gũi, tình cảm, chia sẻ với người khác. Chúng tôi cũng nghĩ rằng tương quan sâu đậm với người khác củng cố thêm tình thân mật của vợ chồng và tình thân mật vợ chồng đến lượt nó giúp chúng tôi hiện diện thực sự hơn với người khác, dấn thân thực sự hơn vào lịch sử.”
Nói cách khác, đôi vợ chồng bộc lộ tính xã hội của tình yêu chính khi bày tỏ ước muốn hợp nhất trong một dự phóng duy nhất cuộc sống riêng và chung với xã hội. Một thái độ sống với dự phóng tương lai như thế sẽ liên hệ không những đến lịch sử của hai người, mà còn liên hệ đến lịch sử của tất cả mọi người, cũng là điểm tới của sự hiệp thông phong nhiêu của họ.
(Còn tiếp)