MỘT TRÁI TIM LỚN MỞ RA CHO THIÊN CHÚA(3)
MỘT TRÁI TIM LỚN MỞ RA CHO THIÊN CHÚA
Suy nghĩ với Hội Thánh
Tôi hỏi Đức Phanxicô: “Đối với ngài, ý nghĩa chính xác của thuật ngữ “cảm nghĩ với Hội Thánh” là gì, một khái niệm mà Thánh I-nhã đã nói tới trong Linh Thao? Dùng một hình ảnh, không ngập ngừng, Đức Phanxicô trả lời như sau:
“Hình ảnh về Hội Thánh mà tôi rất thích là hình ảnh dân Thiên Chúa trung tín và thánh thiện. Đây là định nghĩa mà tôi thường dùng, và hình ảnh đó cũng có trong Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh của Công Đồng Vatican II nữa (số 12). Việc thuộc về một dân có giá trị thần học rất mạnh mẽ. Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã cứu độ một dân. Không có một căn tính trọn vẹn nếu không thuộc về một dân. Không ai được cứu độ một mình, như một cá nhân đơn độc, nhưng Thiên Chúa lôi kéo ta khi nhìn vào một hệ thống tương quan phức tạp xảy ra trong cộng đoàn nhân loại. Chính Thiên Chúa đã đi vào sự năng động dân tộc này
Dân là một chủ thể. Và Hội Thánh là dân của Thiên Chúa trong cuộc hành trình xuyên qua lịch sử, với niềm vui và nỗi buồn. Do đó, cảm nghĩ với Hội Thánh đối với tôi là ở dân này. Và mọi tín hữu, xét như toàn thể, đều là vô ngộ trong khi tin, và biểu lộ tính vô ngộ trong khi tin này (infallibilitas in credendo) ngang qua cảm thức siêu nhiên nơi đức tin của cả một dân đang cùng nhau tiến bước. Đây là điều mà hôm nay tôi hiểu về ‘cảm nghĩ với Hội Thánh’, điều vốn được Thánh I-nhã nói tới. Khi cuộc đối thoại giữa dân với các giám mục và với Đức Giáo Hoàng đi theo đường này và chân thực, thì nó được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Do đó, việc cảm nghĩ với Hội Thánh này không phải chỉ liên quan tới các thần học gia mà thôi.”
Với Đức Mẹ cũng thế: nếu muốn biết Đức Mẹ là ai, bạn hãy hỏi các thần học gia; nếu muốn biết phải yêu mến Mẹ ra sao, bạn nên hỏi người giáo dân. Ngược lại, Đức Maria yêu mến Chúa Giêsu bằng trái tim dân tộc như ta đọc trong Kinh Magnificat. Cho nên, ta cũng không nên nghĩ rằng ‘cảm nghĩ với Hội Thánh’ chỉ có nghĩa là cảm nghĩ với phẩm trật của Hội Thánh”.
Dừng lại ít giây, để tránh hiểu lầm, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tới điểm sau: “Và, dĩ nhiên, ta phải hết sức cẩn trọng để không nghĩ rằng tính vô ngộ của mọi tín hữu mà tôi nói tới, dưới ánh sáng Vatican II, là một hình thức của chủ nghĩa mị dân. Không phải thế; đó là kinh nghiệm của ‘mẹ thánh là Hội Thánh có phẩm trật,’ như chính Thánh I-nhã đã gọi thế, một Hội Thánh hiểu như dân Chúa, mục tử và dân chúng cùng với nhau. Hội Thánh là toàn thể dân Thiên Chúa.”
“Tôi thấy sự thánh thiện của dân Thiên Chúa, sự thánh thiện trong đời sống thường nhật”.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có một ‘giai cấp trung lưu của sự thánh thiện’, mà tất cả chúng ta có thể là thành phần, sự thánh thiện mà Malègue từng đề cập đến”. Đức Thánh Cha có ý nói tới Joseph Malègue, một nhà văn Pháp (1876–1940) mà ngài yêu thích, đặc biệt là bộ sách ba cuốn còn dở dang của ông, tựa là Những Hòn Đá Đen, Các Giai Cấp Trung Lưu Của Sự Cứu Độ (Pierres noires. Les Classes Moyennes du salut). Một số nhà phê bình người Pháp gọi ông là “ông Proust công giáo”.
ĐTC nói tiếp “Tôi thấy sự thánh thiện này trong sự kiên nhẫn của Dân Chúa: một người phụ nữ đang nuôi nấng đưa con, một người đàn ông đang lao nhọc để mang về nhà tấm bánh, những người bệnh, những vị linh mục già nua đã chịu nhiều thương tích nhưng vẫn có nụ cười vì đã phụng sự Thiên Chúa, các nữ tu làm việc chăm chỉ và sống sự thánh thiện tàng ẩn. Đối với tôi, đây là sự thánh thiện chung. Tôi thường nối kết thánh thiện với kiên nhẫn, không chỉ kiên nhẫn hiểu như chịu đựng [hypomoné, một từ Hy lạp trong Tân ước], tức là đón nhận các biến cố và hoàn cảnh trong cuộc sống, nhưng mà còn hiểu như là sự kiên trì tiến tới, ngày này qua ngày khác. Đây chính là sự thánh thiện của Hội Thánh chiến đấu mà thánh I-nhã đã đề cập. Đây là sự thánh thiện của cha mẹ tôi: bố tôi, mẹ tôi, bà ngoại Rosa, những người làm cho tôi rất hạnh phúc. Trong cuốn sách nguyện của mình, tôi giữ chúc thư của bà ngoại Rosa, và tôi thường đọc nó. Đối với tôi, chúc thư này là một lời nguyện. Bà là một vị thánh đã chịu nhiều đau khổ, nhưng với tinh thần thiêng liêng, bà luôn đi tới với sự can đảm.”
“Hội Thánh này, Hội Thánh mà chúng ta nên cùng cảm thức với, vốn là mái nhà của mọi người, chứ không phải là một ngôi nguyện đường bé nhỏ chỉ dành cho một nhóm nhỏ người được chọn. Chúng ta không được phép thu hẹp lòng của Hội Thánh hoàn vũ thành một cái tổ để bảo vệ sự tầm thường của chúng ta. Và Hội Thánh là Mẹ, Hội Thánh trổ sinh hoa trái. Phải như thế.”
“Hội Thánh này, Hội Thánh mà ta nên suy nghĩ với, vốn là nhà của mọi người, không phải là ngôi nhà nguyện nhỏ bé chỉ chứa một nhóm người nhỏ gồm những người được tuyển chọn. Ta đừng thu gọn lòng của Hội Thánh hoàn vũ này thành một cái tổ để bảo vệ tính tầm thường của mình. Và Hội Thánh là Mẹ; Hội Thánh sẵn sàng sinh hoa trái. Phải như thế. Cha thấy đấy, khi biết được được các hành vi tiêu cực nơi các thừa tác viên của Hội Thánh hay nơi các tu sĩ nam nữ, điều đầu tiên nảy sinh trong tâm trí tôi là “đây là một cậu trai già” hay “đây là một cô gái già”. Họ không phải là người cha hay người mẹ theo nghĩa họ không có khả năng trao ban sự sống thiêng liêng. Thay vào đó, chẳng hạn, khi tôi đọc về đời sống của các nhà truyền giáo Salêdiêng tại Patagonia, tôi thấy đó là chuyện một đời sống viên mãn và phát sinh hoa trái.”
“Một ví dụ khác diễn ra trong những ngày gần đây mà tôi thấy rất được chú ý trên báo chí: cuộc điện thoại mà tôi đã gọi cho chàng trai trẻ đã viết cho tôi một lá thư. Tôi gọi cho anh vì lá thư ấy quá đẹp và đơn sơ. Đối với tôi, đây là một hành vi sinh hoa trái. Tôi nhận ra rằng, anh ta là một chàng trai đang lớn, rằng anh xem tôi như một người cha, và rằng lá thư đó kể về một điều gì đó về đời anh với người cha. Người cha này không thể nói “Cha không quan tâm”. Điều sinh hoa trái như vậy làm tôi rất hạnh phúc.”
Các Hội Thánh trẻ trung và các Hội Thánh cổ xưa
Tiếp tục chủ đề về Hội Thánh, tôi hỏi Đức Giáo Hoàng một câu dưới ánh sáng Ngày Giới Trẻ Thế Giới vừa qua. Biến cố vĩ đại này đã hướng chú ý vào giới trẻ, nhưng cũng làm ta chú ý tới “các lá phổi thiêng liêng” tức các Hội Thánh Công Giáo vừa được thành lập trong lịch sử gần đây. Cha hỏi: “Đức Thánh Cha hy vọng những gì cho Hội Thánh hoàn vũ từ các Hội Thánh này?”
Đức Thánh Cha trả lời: “Các Hội Thánh Công Giáo trẻ lớn lên và phát triển được một tổng hợp về đức tin, văn hóa và đời sống đang hình thành, và như thế đây là một tổng hợp khác với tổng hợp đã được phát triển bởi các Hội Thánh cổ xưa. Đối với tôi, tương quan giữa Hội Thánh cổ xưa và Hội Thánh trẻ tương tự tương quan giữa người trẻ và người lớn tuổi trong xã hội. Tất cả đều xây dựng tương lai, người trẻ bằng sức trẻ của họ, người già bằng sự khôn ngoan. Dĩ nhiên, bạn luôn gặp một vài rủi ro. Hội Thánh trẻ có nguy cơ cảm thấy tự mãn, Hội Thánh cổ xưa có nguy cơ muốn áp đặt lên các Hội Thánh trẻ các mô hình văn hóa của mình. Nhưng chúng ta đang cùng nhau xây dựng tương lai.”
Hội Thánh như một bệnh viện dã chiến
Khi tuyên bố từ nhiệm, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói rằng thế giới đương đại đang trải qua nhiều thay đổi nhanh chóng và đang vật lộn với các vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin. Ngài cho rằng muốn đương đầu với các vấn đề này, cần cả sức mạnh thể lý lẫn sức mạnh tinh thần. Dựa trên chính điều ngài vừa nói, tôi đã hỏi lại Đức Phanxicô : “Trong thời khắc mang tính lịch sử này, Hội Thánh cần điều gì hơn cả? Có cần cải cách không? Mong ước của ngài cho Hội Thánh trong những năm sắp tới là gì? Đức Thánh Cha “mơ” một Hội Thánh thế nào?”
Bắt ngay cái “vào đề” câu hỏi của tôi, ĐTC mở đầu bằng cách diễn tả tình cảm sâu sắc và sự tôn trọng lớn lao dành cho vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha nói: “Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã làm một hành vi thánh thiện, cao cả và khiêm nhường. Ngài là một con người của Thiên Chúa.”
Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Tôi thấy rõ: điều Hội Thánh ngày nay cần hơn cả là khả năng chữa lành các vết thương và sưởi ấm tâm hồn các tín hữu. Hội Thánh cần sự gần gũi, cận kề. Tôi nhìn Hội Thánh như một bệnh viện dã chiến sau một trận đánh. Thật vô bổ khi hỏi người bị thương nặng xem họ có lượng mỡ cao hay không hay độ đường trong máu là bao nhiêu! Phải chữa ngay vết thương của họ đã, rồi mới nói tới những chuyện khác. Chữa lành các vết thương, chữa lành các vết thương… và bạn phải khởi từ dưới lên.
“Hội Thánh đôi khi tự khóa mình vào những điều nhỏ nhặt, vào các quy định hẹp hòi. Điều quan trọng nhất là lời công bố đầu tiên: “Đức Giê-su Kitô đã cứu bạn!” Và trên hết, các thừa tác viên của Hội Thánh phải là những thừa tác viên của lòng thương xót. Chẳng hạn, vị linh mục giải tội luôn có nguy cơ quá khắt khe hay quá nới lỏng. Cả hai thái độ ấy đều không phải là lòng thương xót, vì chẳng bên nào thực sự nhận trách nhiệm trên người khác. Người khắt khe rửa tay để trao người đó cho giới răn. Người nới lỏng rửa tay và nói một cách đơn giản rằng: “Đây không phải là tội”, hay một điều đại loại như thế. Người ta phải được đồng hành, vết thương phải được chữa lành.”
“Chúng ta phải đối xử với dân của Chúa như thế nào? Tôi mơ một Hội Thánh là Mẹ và là Mục Tử. Các thừa tác viên của Hội Thánh phải thương xót, có trách nhiệm với dân, đồng hành với họ như người Samaritanô nhân hậu, người rửa ráy, lau sạch và nâng đỡ tha nhân. Đây mới chính là Tin Mừng đích thực. Thiên Chúa cao cả hơn tội. Cải cách về cấu trúc và tổ chức là điều thứ yếu, nghĩa là chúng đến sau. Điều đầu tiên phải cải cách là thái độ. Các thừa tác viên của Tin mừng phải là người có thể sưởi ấm trái tim con người, bước đi với họ trong đêm tối, biết đối thoại và để mình đi vào đêm tối của họ, vào bóng đêm, nhưng không bị lạc lối. Dân của Thiên Chúa muốn các vị mục tử, chứ không muốn các giáo sĩ hành động giống như nhân viên văn phòng hay công chức. Đặc biệt, các giám mục phải có khả năng hỗ trợ bước chân của Thiên Chúa giữa dân với sự kiên nhẫn, để không ai bị bỏ lại đàng sau, nhưng họ cũng có khả năng đồng hành với đàn chiên đang “đánh hơi” tìm những con đường mới.
“Thay vì chỉ là một Hội Thánh biết chào đón và tiếp rước bằng cách để cửa mở, ta hãy cố gắng trở thành một Hội Thánh biết tìm ra những con đường mới, một Hội Thánh có khả năng bước ra khỏi mình và đi tới những ai không tham dự Thánh Lễ, những người đã bỏ cuộc hay dửng dưng. Những người bỏ cuộc đôi khi làm thế vì những lý do mà nếu hiểu và lượng giá đúng, có thể dẫn họ trở về. Nhưng điều này đòi hỏi sự mạnh dạn và lòng can đảm”.
Nắm ngay điều ĐTC đang nói, tôi gợi ý với Đức Thánh Cha rằng có những Kitô hữu sống trong các trạng huống không phù hợp với quy định của Hội Thánh hoặc ít là trong các trạng huống phức tạp, những tín hữu sống với những vết thương còn mở ngóac. Tôi đề cập đến các cặp đã ly dị và tái hôn, các cặp đồng tính luyến ái và nhiều tình huống khó khăn khác. Ta có thể thực hành loại mục vụ thừa sai nào trong các trường hợp này? Ta có thể sử dụng những loại phương tiện nào?
Đức Thánh Cha ra dấu là ngài đã hiểu tôi định nói gì, ngài đáp: “Chúng ta cần công bố Tin Mừng trên mọi nẻo đường, rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa và chữa lành, ngay bằng lời rao giảng của chúng ta, chữa lành mọi bệnh tật và vết thương. Ở Buenos Aires, tôi hay nhận được những người người đồng tính vốn là những người “bị tổn thương về mặt xã hội” bởi vị họ nói cho tôi biết rằng họ cảm thấy như Hội Thánh luôn kết án họ. Nhưng Hội Thánh không muốn làm điều này. Trong chuyến bay trở về từ Rio de Janeiro, tôi nói rằng nếu một người đồng tính có thiện chí và đang trên đường tìm Chúa, thì tôi là ai mà dám kết án họ. Khi nói như vậy, tôi đang nói điều mà sách Giáo lý dạy. Tôn giáo có quyền diễn tả quan điểm của mình để phục vụ dân, nhưng Thiên Chúa trong sáng tạo đã để chúng ta được tự do: do đó, can thiệp vào đời sống thiêng liêng của người khác là không thể được.
“Có lần một người đã hỏi tôi, theo một cách thức khiêu khích, là liệu tôi có ủng hộ tình trạng đồng tính hay không. Tôi đã trả lời bằng một câu hỏi khác: ‘Hãy cho tôi biết: khi Thiên Chúa nhìn vào một người đồng tính, Ngài xác chuẩn cho sự hiên hữu của người ấy với lòng yêu thương, hay xua đuổi và kết án người ấy?’ Chúng ta phải luôn nhìn đến con người. Ở đây chúng ta đang đi vào mầu nhiệm con người. Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trong cuộc sống và chúng ta cũng phải đồng hành với họ, bắt đầu từ hoàn cảnh của họ. Cần đồng hành với họ bằng tình thương mến. Khi chuyện đó xảy ra, Thánh Thần sẽ soi sáng cho vị linh mục biết nói lên điều gì đúng hơn cả.
“Đây cũng là sự cao cả của việc xưng tội xét như là một bí tích: đánh giá từng trường hợp và nhận định đâu là điều tốt nhất cần làm cho một người đang tìm kiếm Thiên Chúa và ân sủng của Người. Tòa giải tội không phải là phòng tra tấn, nhưng là nơi của lòng nhân ái, ở đó Chúa thúc đẩy chúng ta làm điều tốt nhất có thể. Tôi cũng nghĩ đến tình trạng một phụ nữ mang trên vai một cuộc hôn nhân đổ vỡ và có lần đã phá thai. Sau đó, người phụ nữ này đã tái hôn và bây giờ rất hạnh phúc và có năm đứa con. Việc phá thai lần trước đã cắn rứt lương tâm cô và cô thật lòng rất hối tiếc về điều đó. Cô ta muốn tiếp tục tiến lên trong đời sống Ki-tô hữu. Cha giải tội cần phải làm gì?
“Chúng ta không thể cứ luôn nói hoài về những vấn đề liên quan tới chuyện phá thai, hôn nhân đồng giới và việc sử dụng các biện pháp ngừa thai. Không thể như thế được. Tôi đã không nói nhiều về những chuyện này, và tôi đã bị khiển trách về điều đó. Nhưng khi chúng ta nói về những vấn đề này, chúng ta phải nói về chúng trong một bối cảnh. Giáo huấn của Hội Thánh về những vấn đề ấy đã quá rõ ràng rồi, và tôi là con cái của Hội Thánh, nhưng chả cần lúc nào cũng bàn tán về chúng.
“Các giáo huấn của Hội Thánh về tín lý và luân lý không phải tất cả đều ngang hàng với nhau. Một nền mục vụ thừa sai không thể bị ám ảnh với việc truyền đạt một mớ các học thuyết rời rạc áp đặt lên một cách chắc nịch. Loan báo Tin Mừng theo phương cách truyền giáo phải nhắm vào những điều chủ yếu, vào những gì cần thiết: đây cũng chính là điều sẽ gây ấn tượng và thu hút hơn, sẽ làm con tim bừng cháy, như đã xảy ra với các môn đệ trên đường Emmaus. Chúng ta phải tìm cho ra một thế quân bình mới; nếu không thì cả lâu đài luân lý của Hội Thánh có thể sẽ sụp đổ như một lâu đài bằng giấy, sẽ mất đi sự lành mạnh và hương thơm của Tin Mừng. Sự trình bày Tin Mừng phải đơn giản hơn, sâu sắc hơn và sáng rỡ hơn. Chính sự trình bày này sẽ kéo theo những hệ quả luân lý sau đó.
“Nói những điều này, tôi cũng nghĩ đến việc rao giảng và nội dung rao giảng của chúng ta. Một bài giảng hay, một bài giảng đích thực phải bắt đầu với lời công bố đầu tiên, công bố ơn cứu độ. Không có gì vững chắc, sâu sắc và chắc chắn cho bằng lời công bố này. Sau đó phải trình bày giáo lý. Cuối cùng rút ra hệ quả luân lý. Nhưng việc loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa phải đến trước những mệnh lệnh tôn giáo và luân lý. Hình như ngày nay, tiến trình ngược lại có phần chiếm ưu thế hơn. Bài giảng lễ là tiêu chuẩn đo lường sự gần gũi và khả năng gặp gỡ của mục tử với giáo dân của mình, vì người giảng thuyết phải nhận biết con tim của cộng đoàn mình để thấy được nơi đâu lòng khao khát Thiên Chúa được sinh động và nồng cháy. Vì thế, thông điệp của Tin Mừng không nên bị giản lược vào một vài phương diện, dù là quan trọng, nhưng tự chúng không bộc lộ tâm điểm thông điệp của Đức Ki-tô.”
Một giáo hoàng tu sĩ
Đức Giáo Hoàng Phanxicô là vị giáo hoàng đầu tiên xuất thân từ một dòng tu sau vị đan sĩ Camaldoli là giáo hoàng Grêgôriô XVI, được bầu chọn vào năm 1831, cách nay 182 năm. Tôi hỏi: “Đâu là vị trí riêng của các tu sĩ nam nữ trong Hội Thánh ngày nay?”
“Các tu sĩ nam nữ là những vị ngôn sứ”, Đức Giáo Hoàng nói. “Họ là những người đa chọn bước theo Đức Giê-su, bắt chước đời sống của Ngài trong sự vâng phục Thiên Chúa Cha, trong sự khó nghèo, đời sống cộng đoàn và khiết tịnh. Theo nghĩa này, những lời khấn không thể trở thành những bức tranh biếm họa; nếu không thì, chẳng hạn như, đời sống cộng đoàn trở thành địa ngục và đức khiết tịnh trở thành một lối sống của trai già, gái già. Lời khấn khiết tịnh phải là một lời khấn giúp trổ sinh nhiều hoa trái. Trong Hội Thánh, các tu sĩ được mời gọi trở thành ngôn sứ một cách cụ thể qua việc minh họa cho người khác thấy Đức Ki-tô đã sống thế nào trên trái đất này, và loan báo cho người khác biết nước Thiên Chúa sẽ như thế nào khi thành toàn. Một tu sĩ không bao giờ được phép từ bỏ vai trò ngôn sứ của mình. Điều này không có nghĩa là đối lập với phần phẩm trật trong Hội Thánh, dù chức năng ngôn sứ và cấu trúc phẩm trật không đồng nhất với nhau. Tôi đang nói về một đề nghị vốn rất tích cực, nhưng không được nhút nhát. Chúng ta hãy nghĩ đến những gì mà bao nhiêu bậc đại thánh ẩn tu, nam và nữ tu đã làm từ thời thánh An-tôn viện phụ đến bây giờ. Làm ngôn sứ đôi khi cũng có thể nghĩa là làm ầm ĩ. Tôi không biết phải diễn tả sao đây… Làm ngôn sứ thì tạo ra những tiếng ồn, náo động, một số người còn cho rằng đó là ‘một mớ lộn xộn.’ Nhưng trong thực tế, đặc sủng của ngôn sứ là làm men: ngôn sứ loan báo tinh thần của Tin Mừng.”
(còn tiếp)