THÂN XÁC KHÔNG PHỤC TÙNG TINH THẦN ĐE DỌA SỰ THỐNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI – NHÂN VỊ (bài 28) - Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II
Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II:
XXVIII
THÂN XÁC KHÔNG PHỤC TÙNG TINH THẦN
ĐE DỌA SỰ THỐNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI – NHÂN VỊ
(Ngày 2 tháng 6 năm 1980)
1. Chúng ta vẫn đang đọc lại các chương đầu của Sách Sáng thế, để tìm hiểu làm thế nào bởi tội nguyên tổ «con người của dục vọng» lại thay thế «con người của sự trong trắng» nguyên thủy. Những lời St 3,10: «con sợ hãi, vì con trần truồng, và con lẩn trốn» mà chúng ta đã xét đến hai tuần trước đây, minh chứng kinh nghiệm xấu hổ đầu tiên của con người đối với Đấng Tạo Hóa của họ. Đó là một sự xấu hổ cũng có thể gọi là sự xấu hổ «hoàn vũ».
Thế nhưng, sự «xấu hổ hoàn vũ» này – nếu có thể nhận ra được những nét trong toàn thể hoàn cảnh của con người sau phạm tội – trong bản văn Kinh thánh dẫn đến một hình thức xấu hổ khác. Đó là sự xấu hổ sinh ra chính ở nơi nhân tính mà nguyên nhân là do tình trạng vô trật tự tự nơi thẳm sâu của nhân tính ấy. Một nhân tính vốn làm cho con người trong mầu nhiệm tạo dựng như là «hình ảnh của Thiên Chúa», một hình ảnh hệ tại nơi «bản ngã» - vốn là một ngôi vị - của mình cũng như nơi tương quan liên vị nhờ sự hiệp thông các ngôi vị thuở ban đầu được cùng dựng xây bởi người nam và người nữ. Sự xấu hổ ấy phát sinh từ chính nhân tính, vừa nội tại vừa tương đối. Bởi lẽ nó hiển lộ tự bên trong tâm hồn con người, đồng thời lại liên hệ đến «tha nhân». Đó là sự xấu hổ của người phụ nữ «trước» người đàn ông, và cũng là sự xấu hổ của người đàn ông «trước» người phụ nữ. Nỗi xấu hổ trước mặt nhau đó buộc người này phải che phủ cái trần truồng của mình, giấu kín thân thể mình trước người kia; không cho người đàn ông nhìn thấy cái bộ phận là dấu hữu hình của phái nữ, và không cho người phụ nữ nhìn thấy cái là dấu hữu hình của phái nam. Sau khi phạm tội nguyên thủy sự xấu hổ của cả hai người xoay chiều về hướng đó, khi họ nhận ra mình «trần truồng» như St 3,7 xác nhận. Bản văn Giavít xem ra cho thấy cách minh nhiên tính chất «dục tính» của sự xấu hổ ấy: «họ kết lá vả làm khố che thân». Tuy nhiên, chúng ta có thể tự hỏi phải chăng khía cạnh «dục tính» chỉ có đặc tính «tương đối». Nói cách khác, phải chăng sự xấu hổ về tính dục của mình chỉ liên hệ đến con người thuộc giới tính kia.
2. Dưới ánh sáng của câu duy nhất có tính quyết định St 3,7, câu trả lời cho câu hỏi này xem ra ủng hộ trước hết đặc tính tương đối của sự xấu hổ nguyên thủy. Thế nhưng, suy tư về toàn thể bối cảnh trực tiếp giúp ta khám phá ra cái hậu cảnh ẩn sâu hơn của nó. Sự xấu hổ ấy hẳn là hiển lộ ra qua khía cạnh «tính dục» cũng cho thấy nỗi khó khăn đặc biệt trong nhận thức nhân tính cốt yếu của thân xác mình[1]. Con người chưa biết đến kinh nghiệm nhọc nhằn này trong tình trạng trong trắng nguyên thủy. Như thế, những lời: «con sợ hãi, vì con trần truồng» có thể được hiểu như muốn nói lên rõ ràng những hậu quả, là hoa trái trong tâm hồn con người, của cây biết thiện biết ác. Qua những lời đó, người ta thấy có một gãy vỡ căn bản nào đó bên trong nhân vị, gần như sự thống nhất nguyên thủy giữa thân xác và tinh thần con người bị tan vỡ. Lần đầu tiên con người nhận thấy thân xác mình không còn múc lấy được sức mạnh tâm linh vốn có thể nâng thân xác lên cấp độ hình ảnh của Thiên Chúa. Sự xấu hổ nguyên thủy của con người mang những dấu hiệu đặc biệt của một xác thân bị hạ cấp. Ẩn chứa trong đó một mầm mâu thuẫn sẽ bám theo con người «lịch sử» trong suốt cuộc hành trình trần gian, như thánh Phaolô đã viết: «Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa ; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này gây chiến với luật của lí trí» (Rm 7,22-23).
3. Như thế đó hàm ẩn một nội dung bên trong sự xấu hổ ấy. Nó chất chứa một kinh nghiệm đau đớn gây ra một sự bất an nơi sâu thẳm trong toàn bộ cuộc sống nhân sinh, không chỉ vì đối diện với viễn tượng của sự chết, mà còn đối diện với viễn tượng nhờ đó mà nhân vị có giá trị và phẩm giá theo nghĩa đạo đức. Theo nghĩa đó, sự xấu hổ nguyên thủy của thân xác («tôi trần truồng») đã là một nỗi sợ hãi («tôi sợ hãi»), và báo trước một nỗi lo lắng của tâm thức gắn liền với dục vọng. Thân xác, như thế không còn phục tùng tinh thần như trong tình trạng trong trắng nguyên thủy, trở thành một hang ổ thường xuyên phản kháng tinh thần, và cách nào đó đe dọa sự thống nhất của con người – nhân vị, tức là sự thống nhất của bản tính luân lí, vốn bén rễ chắc chắn trong chính cấu trúc nhân vị. Dục vọng, và nhất là dục vọng của tính xác thịt, là một mối đe dọa đặc biệt cho cấu trúc tự sở hữu và tự chủ, là điều mà nhờ đó nhân vị được hình thành. Và nó cũng là một thách thức đặc thù đối với nhân vị. Dù sao đi nữa, con người của dục vọng không làm chủ được thân xác mình theo cùng một cách, cũng đơn sơ và «tự nhiên», như con người vốn đã làm trong tình trạng trong trắng nguyên thủy. Cấu trúc của sự tự chủ, vốn là điểm cốt yếu đối với một nhân vị, bị lung lay cách nào đó tận nền tảng bên trong con người. Con người lại đi tự đồng hóa mình với dục vọng đang khi luôn phải sẵn sàng để chiến thắng nó[2].
4. Sự xấu hổ bên trong gắn liền với sự mất thăng bằng nội tâm đó. Và sự xấu hổ ấy mang đặc tính «tính dục» vì chính lãnh vực tính dục con người như cho thấy rất rõ ràng sự mất thăng bằng đó, một sự thiếu thăng bằng xuất phát từ dục vọng và nhất là từ «dục vọng của tính xác thịt». Từ quan điểm đó, cái xung năng đầu tiên mà St 3,7 nói tới đó («họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân») rất có ý nghĩa. Như thể «con người của dục vọng» (người đàn ông và người phụ nữ «trong hành động nhận biết điều thiện và điều ác») cảm thấy rằng cũng bởi thân xác và giới tính ấy mình đã không còn đứng ở trên thế giới các sinh vật (hay «animalia») nữa. Như thể con người ấy cảm thấy sự toàn vẹn của thân xác nhân vị mình bị gãy vỡ nặng nề, đặc biệt nơi những gì xác định tính dục của nó và những gì liên hệ trực tiếp tới lời mời gọi hợp nhất (người nam và người nữ «sẽ nên một xương một thịt» (St 2,24)). Bởi thế, sự xấu hổ, có tính chất vừa nội tâm vừa liên hệ đến tính dục, luôn tương đối, ít là cách gián tiếp. Đó là sự xấu hổ về tính dục của mình «đối với» con người kia. Sự xấu hổ được biểu lộ trong trình thuật St 3 như thế đó. Bởi thế, chúng ta chứng thực cách nào đó sự khởi sinh của dục vọng con người. Thế nên, từ những lời của Đức Kitô nói về người (đàn ông) kẻ «nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn» (Mt 5,27-28) chúng ta đi ngược lên khởi điểm lúc mà sự xấu hổ được lí giải bởi dục vọng, và dục vọng được giải thích bởi sự xấu hổ, là có lí do khá rõ ràng. Như thế chúng ta hiểu rõ hơn tại sao - và theo nghĩa nào – mà Đức Kitô nói về sự thèm muốn như một tội «ngoại tình» phạm trong lòng, bởi nó liên hệ tới «cõi lòng» con người.
5. Con người cùng lúc có trong lòng mình sự thèm muốn và sự xấu hổ. Sự xấu hổ nảy sinh trong lòng đã hướng con người đến chỗ con người nội tâm, tức «cõi lòng» mở cửa cho những «sự thế gian» đến mà khép lại với những gì «đến từ Chúa Cha». Sự xấu hổ nảy sinh trong lòng con người cùng song hành với sự phát khởi dục vọng – một dục vọng có ba mặt theo thần học Gioan (x.1Ga 2,16), và nói riêng là dục vọng của tính xác thịt. Con người xấu hổ về xác thân mình là bởi dục vọng. Đúng hơn, không xấu hổ nhiều về thân xác mình cho bằng về chính dục vọng: xấu hổ về thân xác bởi chính dục vọng. Con người xấu hổ về thân xác là bởi tình trạng tinh thần của mình, tình trạng mà thần học và tâm lí học gọi cùng một tên, đó là dục vọng hay thèm muốn, dẫu với ý nghĩa không hoàn toàn như nhau. Ý nghĩa thánh kinh và thần học của dục vọng hay thèm muốn khác với ý nghĩa được dùng trong tâm lí học. Đối với tâm lí học, thèm muốn phát xuất từ một nhu cầu, một thiếu thốn được coi như là giá trị cần phải được thỏa mãn. Còn dục vọng theo Kinh thánh, như trích từ đoạn 1Ga 2,16, muốn nói đến tình trạng tinh thần con người đã xa rời sự đơn sơ nguyên thủy và các giá trị viên mãn, mà con người và thế giới này có trong «tầm vóc của Thiên Chúa». Chính nét đơn sơ ấy cũng như giá trị viên mãn của thân xác con người trong kinh nghiệm đầu tiên về giới tính nam nữ mà St 2,23-25 nói tới, sau đó phải chịu một biến chuyển hoàn toàn theo «đường lối của thế gian». Thế là, cùng với dục vọng tính xác thịt sinh ra sự xấu hổ.
6. Xấu hổ có hai ý nghĩa: nó ám chỉ sự đe dọa giá trị và đồng thời bảo vệ giá trị đó trong nội tâm [1]. Cõi lòng con người kể từ khi nảy sinh trong đó dục vọng xác thịt cũng mang cả nỗi xấu hổ. Sự kiện ấy cho thấy rằng người ta có thể và phải liên hệ tới nội tâm khi muốn bảo đảm các giá trị ấy, những giá trị mà dục vọng đã cướp đi mất chiều kích nguyên thủy và viên mãn của chúng. Ý thức điều ấy, ta có thể hiểu rõ hơn tại sao Đức Kitô nói tới «tâm hồn» con người khi đề cập đến dục vọng.
Lm. Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch
----------------------------------------
----------------------------------------
[1] X. X. Carlo wojtyŁa, Amore e responsabilità, Torino 19782, ch. «Metafisica del pudore», 161-178.
[1] «Nhân tính cốt yếu của thân xác mình» phải được hiểu như là điều mà nhờ đó thân xác con người là người và như thế có nghĩa là thân xác biểu lộ nhân vị, thân xác mang tính ngôi vị.
[2] Sự tự chủ, vốn là khả năng đưa thân xác hội nhập vào ngôi vị, trở nên một nhiệm vụ thường xuyên. Nó không còn chỉ đơn giản là một dữ kiện.