TÀI LIỆU: “SỰ THẬT VÀ Ý NGHĨA VỀ TÍNH DỤC CON NGƯỜI: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH” CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH

TÀI LIỆU: “SỰ THẬT VÀ Ý NGHĨA VỀ TÍNH DỤC CON NGƯỜI: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH” CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH

TÀI LIỆU: “SỰ THẬT VÀ Ý NGHĨA VỀ TÍNH DỤC CON NGƯỜI: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH” CỦA HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH

Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình

Tài liệu: “Sự thật và ý nghĩa về tính dục con người: Những định hướng để giáo dục trong gia đình” được Hội đồng Toà thánh về Gia đình ban hành vào ngày 08/12/1995. Sau đây là bản dịch Việt ngữ do Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh, Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận Đà Lạt chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ý: The Pontifical Council for the Family, Sessualità umana: verità e significato, orientamenti educativi in famiglia; Trích trong quyển: Enchiridion della Famiglia; Documenti magisteriali e pastorali su famiglia e vita; 1965 – 2004; A cura del Pontificio Consiglio per la Famiglia. Trang 681 – 752.

LỜI GIỚI THIỆU

Hoàn cảnh và vấn đề

I. ĐƯỢC MỜI GỌI HƯỚNG TỚI TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC

Tình yêu con người như là sự tự hiến

Tình yêu và tính dục con người

Tình yêu vợ chồng

Tình yêu mở ngỏ cho sự sống

II. TÌNH YÊU CHÂN THẬT VÀ ĐỨC KHIẾT TỊNH

Đức khiết tịnh như là sự tự hiến

Sự tự chủ

Đức khiết tịnh vợ chồng

Giáo dục về đức khiết tịnh

III. TRONG VIỄN CẢNH ƠN GỌI

1. Ơn gọi hôn nhân

Được mời gọi sống tình yêu hôn nhân

Cha mẹ đương đầu với một mối bận tâm thời nay

2. Ơn gọi sống đời trinh khiết và độc thân

Cha mẹ và ơn gọi linh mục cũng như đời sống tu trì

IV. CHA MẸ VỚI TƯ CÁCH LÀ NHÀ GIÁO DỤC

Quyền lợi và nghĩa vụ của cha mẹ

Ý nghĩa của bổn phận làm cha mẹ

V. NHỮNG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC TRONG LÒNG GIA ĐÌNH

Giá trị cốt yếu của mái ấm gia đình

Huấn luyện trong cộng đồng hiệp thông sự sống và tình yêu

Sự thẹn thùng và đức nết na

Quyền riêng tư chính đáng

Sự tự chủ

Cha mẹ như là những khuôn mẫu cho chính con cái mình

Một cung thánh của sự sống và của đức tin

VI. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG VIỆC HỌC BIẾT

Bốn nguyên tắc trong việc thông tin giáo dục giới tính

Các giai đoạn chính trong sự phát triển của trẻ em

1. Lứa tuổi của sự ngây thơ trong trắng

2. Lứa tuổi dậy thì

3. Tuổi thiếu niên trong chương trình sống

4. Hướng tới lứa tuổi trưởng thành

VII. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

Những khuyến nghị cho cha mẹ và các nhà giáo dục

1. Những lời khuyên dành cho cha mẹ

2. Những khuyến nghị dành cho tất cả các nhà giáo dục

Bốn nguyên tắc thực hành và những chuẩn mực đặc thù

Các phương pháp cụ thể

a) Những phương pháp được khuyến nghị

b) Những phương pháp và ý thức hệ cần tránh

Hội nhập văn hoá và giáo dục về tình yêu

VIII. KẾT LUẬN

Sự hỗ trợ cho cha mẹ

Những nguồn có giá trị cho việc giáo dục về tình yêu

Trách nhiệm liên đới với các bậc cha mẹ

Hy vọng và tín thác

 

 

HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH

TÍNH DỤC CON NGƯỜI: SỰ THẬT VÀ Ý NGHĨA

Những định hướng giáo dục trong gia đình

08 tháng 12 năm 1995[1]

LỜI GIỚI THIỆU

Hoàn cảnh và vấn đề

1. Ngay cả khi đã lưu tâm đến sự đa dạng của các bối cảnh văn hóa, thì một trong những khó khăn nổi bật giữa muôn vàn khó khăn mà các bậc cha mẹ ngày nay phải đối diện là làm sao chuẩn bị cách xứng hợp cho con cái bước vào đời sống trưởng thành, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục về ý nghĩa đích thực của tính dục. Dẫu không hẳn là hoàn toàn mới mẻ, những khó khăn này có nhiều nguyên nhân khác nhau.

Trong quá khứ, ngay cả khi gia đình chưa trực tiếp cung cấp một nền giáo dục giới tính rõ ràng, thì chính nền văn hóa phổ thông – vốn thấm đẫm sự tôn trọng các giá trị nền tảng – vẫn có thể khách quan bảo vệ và duy trì những định hướng đúng đắn. Ngày nay, sự suy thoái của các mô hình truyền thống trong phần lớn xã hội, bất kể ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển, đã khiến con cái thiếu vắng những chỉ dẫn rõ ràng và tích cực, trong khi cha mẹ lại cảm thấy mình chưa được chuẩn bị đầy đủ để đưa ra những lời giải đáp thỏa đáng. Bối cảnh mới này càng trở nên nghiêm trọng hơn bởi sự lu mờ của chân lý về con người mà chúng ta đang chứng kiến – một thực trạng đi kèm với áp lực ngày càng gia tăng dẫn đến sự tầm thường hóa tính dục. Từ đó hình thành một nền văn hóa trong đó xã hội và các phương tiện truyền thông đại chúng thường xuyên cung cấp những thông tin mang tính phi nhân vị hóa (spersonalizzata), thiên về giải trí, nhiều khi nhuốm màu bi quan, và hầu như không quan tâm đến các giai đoạn khác nhau trong tiến trình đào luyện và trưởng thành của trẻ em và thanh thiếu niên. Tất cả diễn ra dưới ảnh hưởng của một quan niệm lệch lạc về tự do mang tính cá nhân chủ nghĩa, trong một môi trường thiếu vắng những giá trị nền tảng về sự sống, về tình yêu nhân loại và về gia đình.

Hơn nữa, trường học thường sẵn sàng đảm nhận việc thực hiện các chương trình giáo dục giới tính, nhưng nhiều khi thay thế vai trò của gia đình, và phần lớn chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin. Đôi khi, điều này còn dẫn đến sự biến dạng nơi lương tâm. Chính các bậc cha mẹ, vì khó khăn và thiếu sự chuẩn bị, đã không ít lần thoái thác trách nhiệm trong lãnh vực này hoặc trao phó cho người khác.

Trong bối cảnh hiện nay, nhiều bậc cha mẹ Công giáo hướng về Hội Thánh, mong muốn Hội Thánh đảm nhận trách nhiệm đưa ra những định hướng và đề xuất cụ thể cho việc giáo dục con cái của họ, đặc biệt trong giai đoạn thơ ấu và vị thành niên. Cách riêng, chính các bậc phụ huynh đôi khi bày tỏ những khó khăn mà họ gặp phải khi phải đối diện với nội dung giảng dạy được truyền đạt trong nhà trường, rồi sau đó được con cái mang trở ngược về nhà. Chính vì thế, Hội đồng Giáo Hoàng về Gia đình đã nhiều lần nhận được những lời thỉnh cầu khẩn thiết, nhằm có thể ban hành một chỉ dẫn mang tính hỗ trợ cho các bậc cha mẹ trong lãnh vực giáo dục tế nhị và đầy thách thức này.

2. Ý thức sâu sắc về chiều kích gia đình trong việc giáo dục tình yêu và trong cách sống đúng đắn đời sống tính dục của mỗi người, Cơ quan chúng tôi mong muốn đề xuất một số định hướng mục vụ, được kín múc từ nguồn khôn ngoan phát xuất từ Lời Chúa và từ những giá trị đã soi sáng giáo huấn của Hội Thánh, trong sự nhận thức về «kinh nghiệm nhân loại» vốn là đặc thù của cộng đoàn các tín hữu.

Vì thế, trước hết, chúng tôi mong muốn gắn kết bản hướng dẫn này với những nội dung nền tảng liên quan đến sự thật và ý nghĩa của đời sống tính dục, trong khuôn khổ một nền nhân học chân thực và phong phú. Khi trình bày chân lý này, chúng tôi xác tín rằng: «Ai thuộc về sự thật» (Ga 18,37) thì sẽ lắng nghe Lời của Đấng mà chính Ngài là Sự Thật (x. Ga 14,6).

Tài liệu này không nhằm trở thành một khảo luận thần học luân lý, cũng không phải là một bản tóm lược tâm lý học, nhưng mong muốn lưu tâm một cách thích đáng đến những thành tựu của khoa học, đến các điều kiện xã hội–văn hóa của đời sống gia đình, và đến việc đề xuất các giá trị Tin Mừng – những giá trị luôn giữ được sự tươi mới từ mạch nguồn nguyên thủy và khả năng được hiện thực hóa cách cụ thể trong mỗi lứa tuổi.

3. Một vài xác tín nền tảng và vững chắc đã nâng đỡ Hội Thánh trong lãnh vực này, đồng thời cũng là định hướng cho việc soạn thảo tài liệu hiện tại.

Tình yêu, vốn được nuôi dưỡng và biểu lộ trong cuộc gặp gỡ giữa người nam và người nữ, là một hồng ân của Thiên Chúa. Vì thế, tình yêu là một sức mạnh tích cực, hướng tới sự trưởng thành của họ như những nhân vị; đồng thời cũng là một kho tàng quý giá cho việc tự hiến (il dono di sé), điều mà mọi người – cả nam lẫn nữ – đều được mời gọi thực hiện để đạt tới sự viên mãn và hạnh phúc bản thân, trong chương trình sống gắn liền với ơn gọi riêng của mỗi người. Con người được mời gọi sống yêu thương như một tinh thần nhập thể, nghĩa là linh hồn và thân xác trong sự hiệp nhất của nhân vị. Tình yêu nhân loại bao hàm cả thân xác, và thân xác cũng là phương tiện diễn tả tình yêu thiêng liêng[2]. Do đó, tính dục không phải chỉ là một thực tại thuần túy sinh học, nhưng chạm đến tận cốt lõi sâu xa của nhân vị. Việc sử dụng tính dục như sự trao ban thể lý chỉ có sự thật và đạt đến ý nghĩa trọn vẹn khi nó là biểu hiện của sự trao ban chính bản thân giữa người nam và người nữ, kéo dài cho đến tận cái chết. Tình yêu ấy – cũng như toàn thể đời sống con người – phải đối diện với sự mong manh phát sinh từ tội nguyên tổ. Trong nhiều bối cảnh văn hóa – xã hội hiện nay, nó còn chịu tác động của những điều kiện tiêu cực, lệch lạc, đôi khi gây nên những tổn thương sâu xa. Tuy nhiên, nhờ ơn cứu chuộc của Chúa, việc thực hành tích cực đức khiết tịnh đã trở thành một thực tại khả thi và là nguồn vui: cho những người được kêu gọi sống đời hôn nhân – cả trước, trong thời gian chuẩn bị, lẫn suốt đời sống vợ chồng – cũng như cho những ai nhận lãnh hồng ân của một ơn gọi đặc biệt để sống đời thánh hiến.

4. Trong nhãn quan của ơn cứu chuộc và trên hành trình đào luyện thiếu niên và giới trẻ, nhân đức khiết tịnh – vốn thuộc về nhân đức tiết độ, một nhân đức luân lý cột trụ, được ân sủng trong Bí tích Rửa tội nâng cao và làm phong phú – không nên được hiểu như một thái độ đàn áp. Trái lại, khiết tịnh cần được hiểu như sự trong sáng và đồng thời là sự gìn giữ một hồng ân đã lãnh nhận: hồng ân quý giá và phong phú của tình yêu, hướng tới sự tự hiến được thực hiện trong ơn gọi riêng của mỗi người. Vì thế, khiết tịnh chính là «năng lực thiêng liêng biết bảo vệ tình yêu khỏi những nguy cơ của ích kỷ và hung hăng, đồng thời thúc đẩy tình yêu tiến tới sự viên mãn của nó»[3].

Theo một nghĩa nào đó, Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo cũng mô tả và định nghĩa khiết tịnh như sau: «Khiết tịnh diễn tả sự hội nhập tích cực của tính dục vào trong nhân vị, và do đó, là sự hiệp nhất nội tâm của con người trong hiện hữu vừa thể lý vừa thiêng liêng của mình» (số 2337).

5. Trong khuôn khổ giáo dục người trẻ hướng đến sự trưởng thành và khả năng tự hiến, việc đào luyện đức khiết tịnh cũng như trong việc đào luyện các nhân đức khác như tiết độ, can đảm và khôn ngoan đòi hỏi sự cộng tác ưu tiên của cha mẹ. Khiết tịnh, với tư cách là một nhân đức, không thể tồn tại nếu thiếu khả năng từ bỏ chính mình, hy sinh và biết chờ đợi.

Khi trao ban sự sống, cha mẹ cộng tác với quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa và lãnh nhận một hồng ân kèm theo trách nhiệm mới: không chỉ là nuôi dưỡng và đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của con cái, nhưng trên hết là truyền đạt cho chúng chân lý sống động của đức tin và giáo dục chúng về lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Đây là bổn phận hàng đầu của cha mẹ trong «Hội Thánh tại gia»[4].

Hội Thánh luôn khẳng định rằng cha mẹ có bổn phận và quyền lợi là những người giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái mình.

Tiếp nối giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhấn mạnh: «Người trẻ cần được giáo dục cách thích hợp và kịp thời – nhất là trong chính gia đình mình – về phẩm giá của tình yêu hôn nhân, cũng như về chức năng và những biểu hiện của tình yêu ấy»[5].

6. Cha mẹ không được để mình nản lòng trước những thách đố phát sinh từ não trạng và môi trường sống hôm nay. Thật vậy, một mặt cần nhớ rằng các Kitô hữu – ngay từ buổi đầu rao giảng Tin Mừng – đã từng phải đối diện với những thử thách tương tự của chủ nghĩa khoái lạc duy vật (edonismo materialistico). Mặt khác, «nền văn minh của chúng ta, tuy ghi nhận nhiều khía cạnh tích cực trên bình diện vật chất lẫn văn hóa, cũng cần phải nhận ra rằng – xét dưới nhiều phương diện – đó là một nền văn minh bệnh hoạn, gây ra những biến dạng sâu xa nơi con người. Tại sao lại như thế? Lý do là vì xã hội chúng ta đã tách rời khỏi chân lý trọn vẹn về con người, khỏi chân lý về người nam và người nữ như những nhân vị. Hệ quả là xã hội không còn có khả năng hiểu đúng đắn ý nghĩa chân thực của sự trao ban bản thân trong hôn nhân, của tình yêu có trách nhiệm phục vụ thiên chức làm cha và làm mẹ, cũng như của sự cao cả đích thực nơi việc sinh thành và giáo dục»[6].

7. Bởi vậy, việc giáo dục của cha mẹ là điều thiết yếu. Nếu như «trong việc ban tặng sự sống, họ tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì nhờ việc giáo dục, họ trở thành những người thông dự vào đường lối sư phạm vừa mang tính phụ tử vừa mang tính mẫu tử của Ngài… Nhờ Đức Kitô mọi nền giáo dục, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, đều được đưa vào trong chiều kích sư phạm thần linh, vốn hướng tới con người và gia đình, và đạt tới tột đỉnh trong mầu nhiệm Vượt Qua: cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa»[7].

Trong bổn phận vốn đôi khi tế nhị và khó khăn này, cha mẹ không được phép nản lòng, nhưng hãy tín thác vào sự trợ giúp của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và của Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc. Họ cũng hãy nhớ rằng Hội Thánh luôn cầu nguyện cho họ bằng những lời mà Thánh Giáo hoàng Clêmentê I đã dâng lên Chúa để khẩn cầu cho tất cả những ai thi hành quyền bính nhân danh Người: «Lạy Chúa, xin ban cho họ sức khỏe, bình an, hòa thuận và bền tâm, để họ có thể chu toàn cách xứng hợp quyền bính tối cao mà Chúa đã trao phó. Chính Ngài, lạy Chúa, Vua trời muôn thế hệ, đã ban cho con cái loài người vinh quang, danh dự và quyền thế trên mặt đất. Vậy xin Chúa hướng dẫn quyết định của họ theo đuổi những điều tốt đẹp và đẹp lòng Ngài; để khi thi hành quyền bính Chúa trao với lòng đạo đức, trong bình an và nhân hậu, họ có thể được xứng đáng hưởng lòng thương xót của Ngài»[8].

Hơn nữa, vì đã trao ban sự sống và đón nhận nó trong bầu khí yêu thương, cha mẹ được phú ban một tiềm năng giáo dục mà không ai khác có được: họ biết con cái mình theo một cách thức độc nhất vô nhị, trong sự cá biệt không thể lặp lại của chúng; và nhờ kinh nghiệm, họ sở hữu những bí quyết và nguồn lực của tình yêu chân thật.

I. ĐƯỢC MỜI GỌI HƯỚNG TỚI TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC

8. Con người, với tư cách là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng để yêu thương. Chân lý này được mạc khải cách trọn vẹn trong Tân Ước, cùng với mầu nhiệm đời sống nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi: «Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,8)và Ngài sống nơi chính mình một mầu nhiệm hiệp thông cá vị trong tình yêu. Khi tạo dựng con người theo hình ảnh của mình, Thiên Chúa đã khắc ghi vào nhân tính của người nam và người nữ một ơn gọi, và vì thế, cả khả năng lẫn trách nhiệm để yêu thương và hiệp thông. Tình yêu, do đó, là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người»[9]. Do đó, toàn bộ ý nghĩa của tự do, cũng như của sự tự chủ – hệ quả của tự do – đều được quy hướng về việc hiến dâng chính mình trong sự hiệp thông và trong tình thân hữu với Thiên Chúa và với tha nhân[10].

Tình yêu con người như là sự tự hiến

9. Bởi vậy, con người mang nơi mình khả năng yêu thương ở một tầm mức cao hơn: không phải tình yêu của dục vọng, vốn chỉ nhìn tha nhân như đối tượng để thoả mãn các ham muốn của mình, nhưng là tình yêu của tình bạn và lòng vị tha, có khả năng nhận biết và yêu thương tha nhân vì chính họ. Đây là tình yêu mang tính quảng đại, tương tự như tình yêu của Thiên Chúa: người ta ước muốn điều thiện hảo cho tha nhân, bởi nhận ra nơi họ phẩm giá xứng đáng được yêu thương. Đó là tình yêu kiến tạo sự hiệp thông liên vị (comunione tra persone: hiệp thông giữa người với người), bởi mỗi người coi điều thiện hảo của tha nhân như chính thiện hảo của mình. Đây là sự tự hiến dành cho người được yêu, trong đó con người khám phá và thể hiện sự thiện vốn có của mình trong hiệp thông liên vị, đồng thời học được giá trị của việc yêu và được yêu.

Mỗi người được mời gọi sống tình yêu của tình bạn và sự trao ban, và được giải thoát khỏi khuynh hướng vị kỷ nhờ tình yêu của người khác: trước hết là từ cha mẹ hoặc những người thay thế cha mẹ, và sau cùng là từ chính Thiên Chúa – Đấng từ nơi Người phát sinh mọi tình yêu đích thực, và chỉ trong tình yêu của Người mà con người mới khám phá ra mình được yêu thương đến mức nào. Chính tại đây, ta gặp thấy cội nguồn sức mạnh giáo dục của Kitô giáo: «Con người được Thiên Chúa yêu thương! Đây là lời loan báo đơn sơ nhưng gây chấn động mà Giáo Hội mắc nợ với nhân loại»[11]. Bằng cách đó, Đức Kitô đã tỏ lộ cho nhân loại biết bản chất sâu xa (vera identità: căn tính đích thực) của mình: «Đức Kitô, Đấng là Ađam Mới, khi mạc khải mầu nhiệm về Chúa Cha và về tình yêu của Ngài, cũng đồng thời mạc khải cho con người biết cách trọn vẹn chính họ, và làm cho họ nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý (altissima vocazione: ơn gọi cao cả) của mình»[12].

Tình yêu được Đức Kitô mạc khải – «mà thánh Phaolô Tông đồ đã cất cao lời ca tụng trong Bài ca Đức Ái nơi Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrintô – chắc chắn là một tình yêu đòi hỏi (esigente). Nhưng chính trong sự đòi hỏi ấy lại khởi nguồn nên vẻ đẹp của tình yêu: bởi vì chính sự đòi hỏi này kiến tạo điều thiện đích thực cho con người, và đồng thời chiếu tỏa điều thiện ấy trên tha nhân»[13]. Vì thế, đây là một tình yêu biết tôn trọng nhân vị và xây dựng nhân vị, bởi «tình yêu chỉ chân thật khi nó tạo ra điều thiện cho các cá nhân và cho cộng đoàn, khi nó kiến tạo và trao ban điều thiện ấy cho tha nhân»[14].

Tình yêu và tính dục con người

10. Con người được mời gọi sống tình yêu và sự tự hiến trong sự hiệp nhất giữa thân xác và tinh thần. Nam tính và nữ tính là những hồng ân bổ túc cho nhau; vì thế, tính dục con người là thành phần không thể thiếu trong khả năng yêu thương cụ thể mà Thiên Chúa đã ghi khắc nơi người nam và người nữ. «Tính dục là một thành phần nền tảng của nhân cách, một cách thế hiện hữu, biểu lộ, thông hiệp với người khác, cảm nhận, diễn tả và sống tình yêu nhân loại»[15]. Khả năng yêu thương như là sự tự hiến này mang một «sự nhập thể” nơi đặc tính phu thê của thân xác, trong đó nam tính và nữ tính của nhân vị được ghi dấu. «Thân xác con người – với giới tính nam và nữ, với nam tính và nữ tính của mình – được nhìn trong chính mầu nhiệm sáng tạo, không chỉ như nguồn mạch của sự sinh sản và truyền sinh, như trong toàn thể trật tự tự nhiên, nhưng còn từ “thuở ban đầu” đã mang nơi mình thuộc tính “phu thê” : nghĩa là khả năng diễn tả tình yêu; chính trong tình yêu ấy, với tư cách là nhân vị, con người trở thành một tặng phẩm, và qua tặng phẩm này, thực hiện ý nghĩa sâu xa của chính đời sống và sự hiện hữu của mình»[16]. Mọi hình thức yêu thương luôn luôn mang nơi mình dấu ấn của đặc tính nam và nữ này.

11. Như thế, tính dục con người là một điều thiện hảo: nó phát xuất từ hồng ân tạo dựng mà Thiên Chúa đã nhìn nhận là «rất tốt đẹp», khi Người dựng nên nhân vị con người theo hình ảnh và họa ảnh của Người, và «Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ» (St 1,27). Là cách thế để con người tương quan và mở ra với tha nhân, tính dục mang trong mình cứu cánh nội tại là tình yêu – cụ thể hơn: tình yêu như sự trao hiến và đón nhận, như việc cho đi và lãnh nhận. Mối tương quan giữa một người nam và một người nữ tự bản chất là một mối tương quan tình yêu: «Tính dục, khi được định hướng, nâng cao và hội nhập bởi tình yêu, thì đạt được phẩm chất nhân bản đích thực»[17]. Khi tình yêu ấy được thực hiện trong hôn nhân, sự tự hiến qua thân xác diễn tả tính hỗ tương và sự trọn vẹn của món quà trao ban; lúc ấy, tình yêu phu thê trở thành một sức mạnh làm phong phú và thăng tiến các nhân vị, đồng thời góp phần nuôi dưỡng nền văn minh tình yêu.

Trái lại, khi thiếu vắng cảm thức và ý nghĩa của tặng phẩm nơi tính dục, thì xuất hiện «một nền văn minh của những “thứ đồ vật” (cose) thay vì của những “con người” (persone) ; một nền văn minh trong đó con người bị sử dụng như người ta sử dụng các đồ vật. Trong bối cảnh nền văn minh hưởng thụ, người nữ có thể trở thành đối tượng cho người nam, và con cái trở thành chướng ngại cho cha mẹ»[18].

12. Ở trung tâm của lương tâm Kitô giáo nơi cha mẹ và con cái phải đặt để một chân lý lớn lao và một thực tại nền tảng: đó là hồng ân của Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân mà Thiên Chúa đã ban khi mời gọi chúng ta bước vào sự sống và hiện hữu như người nam hay người nữ, trong một cuộc sống độc nhất vô nhị, chất chứa khả năng vô tận để phát triển về tinh thần và luân lý: «Sự sống con người là một hồng ân được lãnh nhận để rồi lại được trao ban»[19]. «Hồng ân, có thể nói, biểu lộ một đặc tính riêng biệt của hiện hữu cá vị, thậm chí của chính bản chất con người. Khi Thiên Chúa (JHWH = Đức Chúa) phán: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2,18), Ngài khẳng định rằng con người, khi ở một mình, không thể hoàn toàn thực hiện bản chất ấy. Con người chỉ thực hiện điều đó khi hiện hữu “với một ai đó” – và còn sâu xa hơn, trọn vẹn hơn, khi hiện hữu “cho một ai đó” »[20]. Chính trong sự mở ra với tha nhân và trong việc trao hiến bản thân mà tình yêu vợ chồng được thể hiện trong hình thức hiến dâng trọn vẹn, vốn là đặc tính riêng của bậc sống này. Và cũng chính trong sự tự hiến, được nâng đỡ bởi một ân sủng đặc biệt, mà ơn gọi đời thánh hiến tìm được ý nghĩa: «một cách thế cao quý để dễ dàng tận hiến cho một mình Thiên Chúa, với một trái tim không phân chia»[21], hầu phục vụ Người cách trọn vẹn nhất trong Giáo Hội. Trong mọi hoàn cảnh và bậc sống, hồng ân này lại càng trở nên kỳ diệu hơn nhờ ân sủng cứu chuộc, nhờ đó chúng ta được «thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4) và được mời gọi cùng nhau sống sự hiệp thông siêu nhiên trong đức ái với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Các bậc cha mẹ Kitô hữu, ngay cả trong những hoàn cảnh tế nhị nhất, không thể quên rằng, ở nền tảng của toàn bộ lịch sử cá nhân và gia đình, luôn có hồng ân của Thiên Chúa.

13. «Với tư cách là một tinh thần nhập thể – nghĩa là linh hồn được biểu lộ nơi thân xác, và thân xác được linh hồn bất tử làm cho sinh động – con người được mời gọi sống tình yêu trong sự hiệp nhất toàn vẹn giữa hồn và xác. Tình yêu bao gồm cả thân xác con người, và thân xác cũng được tham dự vào tình yêu thiêng liêng»[22]. Ý nghĩa liên vị của tính dục cần được hiểu dưới ánh sáng Mạc khải Kitô giáo: «Tính dục là đặc tính của người nam và người nữ, không chỉ trên bình diện thể lý, mà còn cả trên bình diện tâm lý và thiêng liêng, để lại dấu ấn trên mọi biểu hiện của họ. Sự khác biệt này, gắn liền với sự bổ túc lẫn nhau giữa hai giới, hoàn toàn đáp ứng chương trình của Thiên Chúa theo ơn gọi mà mỗi người lãnh nhận»[23].

Tình yêu vợ chồng

14. Khi tình yêu được sống trong hôn nhân, nó vừa bao hàm vừa vượt quá tình bạn, và được thực hiện giữa một người nam và một người nữ, khi họ hoàn toàn trao hiến cho nhau, mỗi người theo nam tính hay nữ tính riêng của mình. Qua giao ước hôn nhân, họ thiết lập một sự hiệp thông nhân vị, nơi Thiên Chúa đã muốn cho sự sống con người được thụ thai, được sinh ra và lớn lên. Việc trao hiến trong lãnh vực tính dục thuộc về – và chỉ thuộc về – tình yêu vợ chồng, vốn «chỉ được thực hiện cách thật sự nhân bản khi là một phần toàn vẹn của tình yêu, trong đó người nam và người nữ dấn thân trọn vẹn với nhau cho đến chết»[24]Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc rằng: «Trong hôn nhân, sự ân ái thể xác của vợ chồng trở thành dấu chỉ và bảo chứng cho sự hiệp thông thiêng liêng. Giữa những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mối dây hôn nhân được thánh hóa nhờ bí tích»[25].

Tình yêu mở ngỏ cho sự sống

15. Dấu chỉ bày tỏ tính chân thật của tình yêu vợ chồng chính là sự mở ngỏ cho sự sống: «Trong chiều sâu thẳm nhất, tình yêu tự bản chất là hồng ân; và tình yêu vợ chồng, khi dẫn đưa đôi bạn đến sự “hiểu biết” lẫn nhau…, không khép lại trong chính đôi vợ chồng, nhưng mở ra khả năng trao hiến cao nhất, nhờ đó họ trở thành cộng tác viên với Thiên Chúa trong việc ban tặng sự sống cho một nhân vị mới. Vì thế, khi vợ chồng trao hiến chính mình cho nhau, họ còn trao hiến vượt qua chính mình nơi thực tại của người con – một phản ánh sống động của tình yêu họ dành cho nhau, một dấu chỉ bền vững của sự hiệp nhất vợ chồng, và là một tổng hợp sinh động, bất khả phân ly, nơi căn tính làm cha và làm mẹ của họ»[26]. Chính từ sự hiệp thông tình yêu và sự sống này mà vợ chồng kín múc được sự phong phú nhân bản và thiêng liêng, cũng như một bầu khí tích cực để nâng đỡ con cái trong việc giáo dục về tình yêu và đức khiết tịnh.

II. TÌNH YÊU CHÂN THẬT VÀ ĐỨC KHIẾT TỊNH

16. Như sẽ được trình bày thêm ở phần sau, cả tình yêu trong bậc sống trinh khiết lẫn tình yêu vợ chồng đều là hai hình thức qua đó con người thực hiện ơn gọi sống tình yêu. Để tình yêu ấy triển nở, cả hai đều đòi hỏi sự dấn thân sống đức khiết tịnh, tùy theo bậc sống của mỗi người. Như Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo khẳng định: «Tính dục chỉ trở nên mang chiều kích nhân vị và thật sự nhân bản khi được hội nhập vào trong mối tương quan giữa người với người, trong sự trao ban trọn vẹn, hỗ tương và vĩnh viễn giữa người nam và người nữ»[27]. Vì tình yêu gắn liền với việc trao ban chân thành chính mình, nên sự trưởng thành trong tình yêu được nâng đỡ bởi kỷ luật nội tâm trong việc rèn luyện cảm xúc, đam mê và tình cảm, nhờ đó con người đạt đến sự tự chủ. Không ai có thể trao ban điều mình không sở hữu: nếu một người không làm chủ chính mình – nhờ các nhân đức, và cách cụ thể là nhờ đức khiết tịnh – thì người ấy thiếu mất sự tự sở hữu cần thiết để có khả năng tự hiến. Đức khiết tịnh là một năng lực tinh thần giải thoát tình yêu khỏi tính ích kỷ và sự hung hăng. Và ở mức độ nào mà đức khiết tịnh bị suy yếu nơi con người, thì tình yêu của họ cũng dần trở nên ích kỷ, nghĩa là chỉ còn tìm kiếm khoái lạc, chứ không còn là sự trao ban chính mình.

Đức khiết tịnh như là sự tự hiến

17. Đức khiết tịnh là một lời khẳng định chan chứa niềm vui của người biết sống sự trao ban chính mình, được giải thoát khỏi mọi hình thức nô lệ của tính ích kỷ. Điều đó giả thiết rằng con người đã học biết nhận ra tha nhân, biết thiết lập tương quan với họ trong sự tôn trọng phẩm giá, ngay trong sự khác biệt. Người sống khiết tịnh không khép kín nơi chính mình, cũng không rơi vào những mối quan hệ ích kỷ với người khác. Đức khiết tịnh làm cho nhân cách được hài hòa, trưởng thành và chan chứa bình an nội tâm. Sự trong sạch của tâm hồn và thân xác này giúp phát triển một lòng tự trọng chân chính, đồng thời ban khả năng tôn trọng tha nhân, bởi nó cho thấy nơi họ một nhân vị đáng kính: được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và, nhờ ân sủng, là con cái Thiên Chúa, được tái sinh trong Đức Kitô – Đấng «đã kêu gọi anh em ra khỏi bóng tối, để bước vào ánh sáng diệu kỳ của Ngài» (1 Pr 2,9).

Sự tự chủ

18. «Đức khiết tịnh đòi hỏi phải thủ đắc sự tự chủ, vốn là một sự huấn luyện hướng dẫn con người đến với tự do đích thực. Sự lựa chọn rất rõ ràng: hoặc con người làm chủ các đam mê của mình và đạt được bình an, hoặc để mình bị nô lệ bởi chúng và trở nên bất hạnh»[28]. Mỗi người đều biết – ngay cả qua kinh nghiệm bản thân – rằng đức khiết tịnh đòi hỏi phải khước từ những tư tưởng, lời nói và hành vi tội lỗi, như Thánh Phaolô đã ân cần giải thích và nhắc nhở (x. Rm 1,18: Thiên Chúa chống lại mọi thứ vô luân và bất chính; Rm 6,12-14: Vậy tội lỗi khiến con người phải nghe theo những dục vọng của thân xác; 1 Cr 6,9-11: Những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp; 2 Cr 7,1: Vì lời hứa nước trời lo lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn; Gl 5,16-23: những kẻ tội lỗi sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa; Ep 4,17-24: đừng ăn ở buông thả, sống phóng đãng nhưng phải mặc lấy con người mới được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện; Ep 5,3-13: phải tránh dâm ô hay tham lam và làm điều đẹp lòng Chúa; Cl 3,5-8: từ bỏ gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; 1 Tx 4,1-18: Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện; 1 Tm 1,8-11: Lề Luật có cho hạng vô luân và tội lỗi; 1 Tm 4,12: hãy nên gương mẫu về đức ái, đức tin và lòng trong sạch). Vì thế, cần có một năng lực và một thái độ sống tự chủ – đó là dấu chỉ của sự tự do nội tâm, của trách nhiệm đối với chính mình và với tha nhân, đồng thời là chứng tá của một lương tâm được soi dẫn bởi đức tin. Sự tự chủ này bao gồm cả việc tránh xa những dịp dễ đưa đến cám dỗ và kích thích tội lỗi, cũng như biết vượt thắng những xung lực bản năng nơi bản tính tự nhiên của mình.

19. Khi gia đình thực hiện một công việc giáo dục có giá trị và khích lệ việc rèn luyện mọi nhân đức, thì việc giáo dục đức khiết tịnh trở nên dễ dàng hơn và tránh được những xung đột nội tâm (conflitti interiori), cho dù đôi lúc người trẻ có thể trải qua những hoàn cảnh đặc biệt tế nhị. Đối với một số người phải sống trong môi trường xúc phạm và hạ thấp giá trị của đức khiết tịnh, thì việc sống trong sạch có thể đòi hỏi một cuộc chiến đấu cam go, thậm chí mang tính anh hùng. Tuy vậy, với ân sủng của Đức Kitô – Đấng tuôn trào tình yêu phu thê của Người cho Hội Thánh – mọi người đều có thể sống khiết tịnh, ngay cả khi họ đang ở trong những hoàn cảnh không thuận lợi.

Chính việc mọi người được mời gọi nên thánh, như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở (Lumen Gentium, các số 39-42), giúp ta dễ hiểu hơn rằng, trong bậc sống độc thân cũng như trong đời sống hôn nhân, đều có những tình huống đòi hỏi những hành vi anh hùng của nhân đức – những tình huống mà trên thực tế (di fatto ) ai cũng phải trải qua, theo cách này hay cách khác, trong những giai đoạn dài ngắn khác nhau[29]. Vì vậy, đời sống hôn nhân cũng bao hàm một hành trình nên thánh vừa vui tươi vừa đòi hỏi.

Đức khiết tịnh vợ chồng

20. «Những người đã lập gia đình được mời gọi sống đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng; còn những người khác thực hành đức khiết tịnh trong sự tiết dục»[30]. Các bậc cha mẹ ý thức rằng tiền đề hữu hiệu nhất để giáo dục con cái hướng đến tình yêu trong sáng và sự thánh thiện của đời sống chính là việc họ đích thân sống đức khiết tịnh vợ chồng. Điều này đòi hỏi họ phải nhận biết rằng trong tình yêu của họ có sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa; và vì thế, cả việc hiến thân tính dục cũng phải được sống trong sự tôn kính Thiên Chúa và kế hoạch yêu thương của Người, với lòng trung tín, tôn trọng và quảng đại đối với người phối ngẫu và với sự sống có thể phát sinh từ hành vi yêu thương ấy.

Chỉ trong cách sống như thế, tình yêu của họ mới có thể trở thành một biểu hiện của đức ái[31]; do đó, người Kitô hữu trong đời sống hôn nhân được mời gọi sống sự hiến thân ấy trong chính mối tương quan cá vị của mình với Thiên Chúa, như là một biểu lộ đức tin và tình yêu dành cho Người, và vì vậy, với sự trung thành và quảng đại sinh hoa kết trái, họ phản chiếu tình yêu thần linh[32].

Chỉ như thế, họ mới thực sự đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và thực thi thánh ý của Người, điều mà các giới răn giúp chúng ta nhận biết. Không có một tình yêu chân chính nào, ở mức độ cao đẹp nhất của nó, mà lại không phải là tình yêu hướng về Thiên Chúa. Yêu mến Chúa bao hàm việc đáp lại cách tích cực các giới răn của Người: «Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy» (Ga 14,15)[33].

21. Để sống đức khiết tịnh, cả người nam lẫn người nữ đều cần đến sự soi sáng liên lỉ của Chúa Thánh Thần. «Trung tâm của linh đạo hôn nhân là đức khiết tịnh – không chỉ như một nhân đức luân lý (được tình yêu đào luyện), mà còn như một nhân đức gắn liền với các ân huệ của Chúa Thánh Thần, trước hết là ơn biết tôn kính những gì xuất phát từ Thiên Chúa (donum pietatis = ơn đạo đức)… Như thế, trật tự nội tâm trong đời sống vợ chồng – vốn cho phép những “biểu hiện tình cảm” triển nở theo đúng mức độ và ý nghĩa của chúng – không chỉ là hoa trái của nhân đức mà đôi bạn tập luyện, nhưng còn là kết quả của các ân huệ Chúa Thánh Thần mà họ cộng tác để đón nhận»[34].

Mặt khác, khi cha mẹ xác tín rằng chính đời sống khiết tịnh và nỗ lực làm chứng cho sự thánh thiện trong từng ngày sống là tiền đề và điều kiện cho việc giáo dục con cái, thì họ cũng phải xem bất kỳ sự tấn công nào vào nhân đức và đức khiết tịnh của con cái như là một xúc phạm đến chính đời sống đức tin của mình, và như một mối đe dọa làm suy giảm sự hiệp thông trong đời sống và trong ân sủng của họ (x. Ep 6,12).

Giáo dục về đức khiết tịnh

22. Việc giáo dục con cái về đức khiết tịnh nhằm đạt được ba mục tiêu: a) duy trì trong gia đình một bầu khí tích cực của tình yêu, của các nhân đức và của sự tôn trọng đối với những hồng ân Thiên Chúa, đặc biệt là hồng ân sự sống[35]; b) từng bước giúp con cái hiểu biết giá trị của tính dục và của đức khiết tịnh, nâng đỡ sự trưởng thành của chúng bằng ánh sáng giáo huấn, gương sống và lời cầu nguyện; c) giúp chúng hiểu và khám phá ơn gọi riêng của mình – hoặc là đời sống hôn nhân, hoặc là đời sống khiết tịnh tận hiến vì Nước Trời – trong sự hài hòa và tôn trọng các khuynh hướng, thái độ cùng những ân huệ của Chúa Thánh Thần nơi mỗi người.

23. Bổn phận này có thể được nâng đỡ bởi các nhà giáo dục khác, nhưng không thể bị thay thế, trừ khi vì những lý do nghiêm trọng liên quan đến sự bất lực thể lý hoặc luân lý. Về điểm này, Huấn quyền của Giáo Hội đã diễn tả cách minh bạch[36], liên quan đến toàn bộ tiến trình giáo dục con cái: «Vai trò giáo dục của cha mẹ quan trọng đến mức, nếu thiếu vắng, thì khó lòng được bù đắp. Chính cha mẹ phải kiến tạo trong gia đình một bầu khí được sinh động hóa bởi tình yêu và lòng đạo đức đối với Thiên Chúa cũng như con người – một bầu khí thuận lợi cho việc giáo dục toàn diện con cái cả về phương diện cá nhân lẫn xã hội. Gia đình vì thế là trường học đầu tiên của các nhân đức xã hội, những gì thực sự cần thiết cho mọi cộng đồng nhân loại»[37]. Thật vậy, quyền và bổn phận giáo dục thuộc về cha mẹ, bởi vì công trình giáo dục là sự tiếp nối việc sinh thành, và là việc trao ban nhân tính của họ[38] cho con cái – một cam kết mà họ đã long trọng nhận lãnh ngay trong Bí tích Hôn phối.

«Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chủ yếu của con cái mình, và trong lãnh vực này, họ cũng có một năng lực nền tảng: họ là những nhà giáo dục bởi vì họ là cha mẹ.

Họ chia sẻ sứ mạng giáo dục của mình với những người khác và với các thiết chế như Giáo Hội và Nhà Nước; tuy nhiên, việc chia sẻ này phải luôn được thực hiện trong sự áp dụng đúng đắn nguyên tắc bổ trợ (sussidiarietà). Nguyên tắc ấy khẳng định tính chính đáng – và thậm chí là bổn phận – trong việc hỗ trợ cha mẹ, nhưng đồng thời cũng xác định giới hạn nội tại và bất khả xâm phạm của quyền ưu tiên cũng như khả năng thực sự của cha mẹ. Vì thế, nguyên tắc bổ trợ được đặt để phục vụ tình yêu của cha mẹ và nhắm đến thiện ích của gia đình. Thật vậy, cha mẹ không thể tự mình đáp ứng mọi đòi hỏi của toàn bộ tiến trình giáo dục, nhất là trong lãnh vực học vấn và sự hội nhập xã hội rộng lớn. Do đó, nguyên tắc bổ trợ giúp kiện toàn tình phụ tử và mẫu tử, củng cố tính nền tảng của chúng, bởi vì mọi tác nhân khác trong tiến trình giáo dục chỉ có thể hành động nhân danh cha mẹ, với sự đồng thuận của cha mẹ, và trong một mức độ nào đó, thậm chí theo sự ủy thác của cha mẹ»[39].

24. Nhất là trong thời đại hôm nay, việc giáo dục về tính dục và về tình yêu đích thực – tình yêu hướng mở đến sự tự hiến – phải đối diện với một nền văn hóa bị chi phối bởi chủ nghĩa thực chứng (positivismo), như Đức Thánh Cha đã nêu rõ trong Lá thư gửi các gia đình: «Sự phát triển của nền văn minh đương đại gắn liền với tiến bộ khoa học và kỹ thuật, vốn thường diễn ra một cách phiến diện, và vì thế mang những đặc điểm thuần túy thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng, như người ta biết, dẫn đến thuyết bất khả tri (agnosticismo) trong lãnh vực lý thuyết và chủ nghĩa thực dụng (utilitarismo) trong lãnh vực thực hành cũng như đạo đức… Chủ nghĩa thực dụng tạo ra một nền văn minh của sản xuất và hưởng thụ, một nền văn minh của những “thứ đồ vật” chứ không phải của những “con người” (persone); một nền văn minh trong đó nhân vị bị sử dụng như người ta sử dụng những thứ đồ vật… Để nhận ra điều này, chỉ cần xem xét – như Đức Thánh Cha lưu ý – một số chương trình giáo dục giới tính được đưa vào trong các trường học, thường bất chấp ý kiến trái ngược và cả những phản đối từ nhiều bậc phụ huynh»[40].

Trong bối cảnh như vậy, điều thiết yếu là cha mẹ – dựa vào giáo huấn của Hội Thánh và với sự nâng đỡ của Hội Thánh – phải giành lại trách nhiệm riêng biệt của mình. Và khi thấy cần thiết hay hữu ích, họ có thể liên kết với nhau để thực hiện một chương trình giáo dục được xây dựng trên những giá trị chân thật của nhân vị và của tình yêu Kitô giáo, đồng thời giữ một lập trường rõ ràng vượt lên trên chủ nghĩa thực dụng trong lãnh vực luân lý. Để việc giáo dục đáp ứng đúng những đòi hỏi khách quan của tình yêu đích thực, cha mẹ phải thi hành trong chính trách nhiệm tự lập của mình.

25. Liên quan đến việc chuẩn bị cho hôn nhân, giáo huấn của Hội Thánh nhắc lại rằng gia đình phải giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc giáo dục này[41].

Chắc chắn rằng «những biến đổi diễn ra trong hầu hết các xã hội hiện đại đòi hỏi không chỉ gia đình, mà cả xã hội và Hội Thánh cũng phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn bị cách thích hợp cho người trẻ đảm nhận những trách nhiệm tương lai của họ»[42]. Chính vì thế, bổn phận giáo dục của gia đình ngay từ những năm đầu đời càng có tầm quan trọng đặc biệt: «Việc chuẩn bị xa (preparazione remota ) khởi sự từ thời thơ ấu, trong nền sư phạm khôn ngoan của gia đình, được định hướng để dẫn dắt trẻ em khám phá chính mình như những con người được phú ban một đời sống tâm lý phong phú và phức tạp, cùng một nhân cách độc đáo với những ưu điểm và giới hạn riêng»[43].

III. TRONG VIỄN CẢNH ƠN GỌI

26. Gia đình giữ một vai trò quyết định trong việc làm nảy nở và phát triển mọi ơn gọi, như Công đồng Vaticanô II đã dạy: «Từ hôn nhân phát sinh gia đình, nơi đó những công dân mới của xã hội loài người được sinh ra, và nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần qua bí tích Thánh Tẩy, họ được nâng lên địa vị làm con cái Thiên Chúa, để dân Chúa được tiếp nối qua các thế hệ. Chính vì thế, gia đình có thể được gọi là Hội Thánh tại gia, nơi cha mẹ – bằng lời nói và gương sáng – phải là những người đầu tiên loan báo đức tin cho con cái, đồng thời nâng đỡ ơn gọi riêng của từng người con, đặc biệt là ơn gọi thánh hiến»[44]. Hơn nữa, dấu chỉ đích thực của một mục vụ gia đình phong nhiêu chính là việc các ơn gọi được nảy sinh: «Nơi nào có một mục vụ gia đình được soi sáng và thực thi cách hữu hiệu, thì việc đón nhận sự sống trở thành điều tự nhiên và tràn đầy niềm vui; và cũng chính tại đó, tiếng gọi của Thiên Chúa dễ dàng vang lên trong đời sống, để được lắng nghe và quảng đại đáp lại»[45].

Dù là ơn gọi sống đời hôn nhân, hay đời sống khiết tịnh và độc thân, tất cả đều quy về ơn gọi nên thánh. Thật vậy, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium (về Giáo Hội) của Công đồng Vaticanô II đã trình bày giáo huấn về ơn gọi nên thánh phổ quát (l’universale chiamata alla santità: lời mời gọi nên thánh dành cho mọi người) như sau: «Được trao ban những phương thế cứu độ dồi dào và kỳ diệu như thế, tất cả các Kitô hữu – thuộc mọi bậc sống và hoàn cảnh – đều được Chúa kêu gọi, mỗi người theo cách thế riêng của mình, để đạt tới sự hoàn thiện trong sự thánh thiện, như chính Chúa Cha trên trời là Đấng trọn hảo»[46].

1. Ơn gọi hôn nhân

27. Việc huấn luyện hướng đến tình yêu đích thực luôn là sự chuẩn bị tốt nhất cho ơn gọi hôn nhân. Trong gia đình, trẻ em và người trẻ có thể học cách sống tính dục con người với chiều sâu và trong bối cảnh đời sống Kitô hữu. Các em sẽ dần dần khám phá rằng một hôn nhân Kitô giáo vững chắc không thể được coi là kết quả của sự tiện lợi hay chỉ đơn thuần do hấp dẫn giới tính. Bởi vì hôn nhân là một ơn gọi, nên tất yếu đòi hỏi một sự chọn lựa chín chắn, một cam kết hỗ tương trước mặt Thiên Chúa, và một đời cầu nguyện liên lỉ khẩn xin sự trợ giúp của Ngài.

Được mời gọi sống tình yêu hôn nhân

28. Trong trách nhiệm giáo dục con cái hướng đến tình yêu, trước hết các bậc cha mẹ Kitô hữu có thể quy chiếu về chính ý thức của họ đối với tình yêu vợ chồng. Như Thông điệp Humanae Vitae nhắc lại, tình yêu này «biểu lộ bản chất chân thật và cao quý của nó khi được nhìn nhận từ nguồn gốc tối thượng là Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu (x. 1 Ga 4,8), ‘Chúa Cha, từ nơi Người mọi gia tộc và mọi tình phụ tử trên trời dưới đất đều nhận được tên gọi’ (x. Ep 3,15)” . Vì thế, hôn nhân không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên hay là sản phẩm của những lực vô thức trong tự nhiên: nhưng là một định chế khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa để thực hiện kế hoạch tình yêu của Người nơi nhân loại. Qua việc trao hiến bản thân cho nhau cách trọn vẹn và dành riêng, người vợ và người chồng hướng đến sự hiệp thông trong hữu thể, nhằm đạt tới sự hoàn thiện của nhau, đồng thời cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh thành và giáo dục những sự sống mới. Đối với những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hôn nhân còn mang phẩm giá là dấu chỉ bí tích của ân sủng, vì nó diễn tả sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh»[47].

Trong Thư gửi các gia đình, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng: “Gia đình là… một cộng đoàn các ngôi vị, nơi đó phương thế hiện hữu và sống với nhau cách đích thực chính là sự hiệp thông: communio personarum (sự hiệp thông ngôi vị)”[48]. Và dựa trên giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II, ngài dạy rằng sự hiệp thông này bao hàm «một sự tương đồng nào đó giữa sự hiệp nhất của các Ngôi Vị Thiên Chúa và sự hiệp nhất của con cái Thiên Chúa trong chân lý và tình yêu»[49]. «Cách diễn đạt này đặc biệt phong phú và giàu ý nghĩa, vì trước hết khẳng định điều quyết định căn tính sâu xa của mỗi người nam và mỗi người nữ. Căn tính ấy hệ tại ở khả năng sống trong chân lý và tình yêu; hơn nữa, và nhất là, nó hệ tại trong nhu cầu về chân lý và tình yêu – những chiều kích cấu thành đời sống con người. Chính nhu cầu này mở lối cho con người đến với Thiên Chúa cũng như với các thụ tạo: mở lối đến với tha nhân, đến với đời sống ‘trong sự hiệp thông’, và cách riêng, đến với hôn nhân và gia đình»[50].

29. Tình yêu hôn nhân, theo như Thông điệp Humanae Vitae khẳng định, có bốn đặc tính: đó là tình yêu nhân bản (cảm tính và thiêng liêng), trọn vẹn, trung tín và phong nhiêu[51].

Những đặc tính này được đặt nền trên thực tại rằng: «Người nam và người nữ trong hôn nhân liên kết với nhau khăng khít đến nỗi – theo lời Sách Sáng Thế – họ trở nên “một xương một thịt” (St 2,24). Là nam và nữ theo cấu tạo thể lý, tuy khác biệt về mặt thân thể, nhưng cả hai chủ thể nhân linh đều bình đẳng trong khả năng sống “trong chân lý và trong tình yêu” . Khả năng này, vốn là đặc tính của hữu thể nhân linh với tư cách là ngôi vị, mang chiều kích vừa thiêng liêng vừa thể chất… Gia đình phát sinh từ sự kết hợp ấy kín múc sự vững chắc nội tại của mình từ giao ước giữa đôi bạn hôn phối – một giao ước mà Đức Kitô đã nâng lên thành bí tích. Chính từ đó, gia đình kín múc bản chất cộng đoàn của mình, hay đúng hơn, những đặc tính của “hiệp thông” , bởi vì sự hiệp thông nền tảng của đôi bạn hôn phối được nối dài nơi con cái. “Anh chị có sẵn sàng đón nhận cách có trách nhiệm và với tình yêu những người con mà Thiên Chúa muốn ban cho anh chị, và giáo dục chúng… không?” – vị chủ sự hỏi trong nghi thức hôn phối. Câu trả lời của đôi bạn tương ứng với sự thật sâu xa của tình yêu nối kết họ»[52]. Và cũng với công thức của nghi thức hôn phối, đôi bạn cam kết và hứa «luôn luôn giữ lòng trung tín»[53], chính bởi vì sự trung tín vợ chồng phát sinh từ sự hiệp thông các ngôi vị này, vốn được gắn kết trong kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, trong Tình Yêu Ba Ngôi, và trong bí tích diễn tả sự kết hợp trung tín của Chúa Kitô với Hội Thánh.

30. Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích, nhờ đó tính dục được hòa nhập vào hành trình nên thánh, trong một mối dây được củng cố bởi sự hiệp nhất bất khả phân ly. «Ân sủng của Bí tích vừa là một ơn gọi, vừa là một lệnh truyền dành cho đôi bạn Kitô hữu, để họ suốt đời trung thành với nhau, vượt qua mọi thử thách và gian nan, trong sự vâng phục quảng đại đối với thánh ý Chúa: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6)»[54].

Cha mẹ đương đầu với một mối bận tâm thời nay

31. Thật đáng buồn, ngày nay, ngay cả trong các xã hội Kitô giáo, cha mẹ có lý do để lo ngại về sự bền vững của hôn nhân tương lai nơi con cái mình. Tuy nhiên, họ phải đáp lại bằng một thái độ lạc quan, bất chấp sự gia tăng các vụ ly hôn và cuộc khủng hoảng gia đình ngày càng sâu rộng, bằng cách dấn thân trao ban cho con cái một nền huấn luyện Kitô giáo sâu xa, giúp chúng có khả năng vượt thắng những khó khăn khác nhau. Cụ thể, tình yêu đối với đức khiết tịnh – mà cha mẹ sẽ trợ giúp con cái trong việc hình thành – sẽ thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau giữa nam và nữ, đồng thời trao cho chúng khả năng sống nhân ái, dịu dàng, bao dung, quảng đại, và trên hết là tinh thần hy sinh, một đức tính mà nếu thiếu nó thì không tình yêu nào có thể đứng vững. Nhờ đó, con cái sẽ tiến bước vào đời sống hôn nhân với sự khôn ngoan thực tiễn mà thánh Phaolô nhắc đến, theo lời giáo huấn của ngài: vợ chồng phải không ngừng vun đắp tình yêu cho nhau và chăm sóc lẫn nhau với lòng kiên nhẫn và sự trìu mến (x. 1Cr 7,3-6: Bổn phận vợ chồng; Ep 5,21-23: vợ chồng tùng phục lẫn nhau).

32. Qua việc huấn luyện từ sớm về đức khiết tịnh trong gia đình, các thiếu niên và người trẻ học biết sống tính dục trong chiều kích cá vị, từ chối mọi sự tách biệt tính dục ra khỏi tình yêu – được hiểu như là sự hiến dâng chính mình – và tình yêu vợ chồng ra khỏi gia đình. Sự tôn trọng của cha mẹ đối với sự sống và đối với mầu nhiệm của việc truyền sinh sẽ giúp cho con trẻ và giới trẻ tránh khỏi quan niệm sai lạc rằng hai chiều kích của hành vi vợ chồng – kết hợp và sinh sản – có thể bị tách rời theo ý riêng. Như vậy, gia đình được nhìn nhận như là một phần không thể tách rời của ơn gọi hôn nhân.

Một nền giáo dục Kitô giáo về đức khiết tịnh trong gia đình không thể làm ngơ trước sự nghiêm trọng về luân lý của việc tách biệt chiều kích kết hợp và chiều kích sinh sản trong đời sống vợ chồng; điều này biểu lộ đặc biệt trong việc ngừa thai và việc sinh sản nhân tạo: trong trường hợp thứ nhất, người ta tìm hưởng khoái lạc tình dục bằng cách can thiệp vào hành vi vợ chồng để tránh thụ thai; trong trường hợp thứ hai, người ta tìm kiếm việc thụ thai bằng cách thay thế hành vi vợ chồng bằng một kỹ thuật. Cả hai đều nghịch lại sự thật của tình yêu vợ chồng và sự hiệp thông trọn vẹn trong hôn phối.

Do đó, việc huấn luyện giới trẻ về đức khiết tịnh phải trở thành một sự chuẩn bị cho tình phụ tử và mẫu tử có trách nhiệm, vốn «liên hệ trực tiếp đến thời điểm mà người nam và người nữ, khi hiệp nhất với nhau “thành một xương một thịt” , có thể trở nên cha mẹ. Đó là một thời điểm phong phú những giá trị đặc thù, vừa cho tương quan liên vị của họ, vừa cho sự phục vụ sự sống: họ có thể trở nên cha và mẹ, trao ban sự sống cho một con người mới. Hai chiều kích của sự hiệp nhất vợ chồng – kết hợp và sinh sản – không thể bị tách biệt cách gượng gạo (artificialmente) mà không làm tổn hại đến sự thật thâm sâu của chính hành vi vợ chồng»[55].

Cũng cần phải trình bày cho người trẻ thấy những hệ quả – luôn luôn nghiêm trọng – phát sinh từ việc tách biệt tính dục khỏi việc truyền sinh, như khi người ta đi đến việc triệt sản và phá thai, hoặc theo đuổi một lối sống tính dục bị tách lìa cả khỏi tình yêu vợ chồng, trước hoặc ngoài hôn nhân.

Chính từ nền giáo dục này – vốn được đặt trong chương trình của Thiên Chúa, trong cấu trúc nội tại của tính dục, trong bản chất thâm sâu của hôn nhân và gia đình – mà phần lớn trật tự luân lý và sự hòa hợp vợ chồng trong gia đình tùy thuộc, và do đó, cũng tùy thuộc vào đó thiện ích đích thực của xã hội.

33. Khi cha mẹ thi hành quyền và bổn phận giáo dục con cái trong đức khiết tịnh, họ có thể chắc chắn rằng mình đang giúp chúng chuẩn bị để đến lượt chúng xây dựng nên những gia đình bền vững và hiệp nhất; như thế, trong chừng mực có thể, chúng được nếm trước niềm vui Thiên đàng: «Làm sao tôi có thể mô tả được hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Giáo Hội thiết lập, được sự trao hiến lẫn nhau củng cố, được lời chúc lành đóng ấn, được các thiên thần công bố và chính Thiên Chúa chuẩn nhận? … Hai vợ chồng trở nên như anh chị em, như những người tôi tớ phục vụ lẫn nhau, không chấp nhận bất cứ sự chia rẽ nào giữa họ, dù trong thân xác hay trong tinh thần… Trong họ, Đức Kitô vui mừng hiện diện và ban bình an của Người cho họ; nơi đâu có hai người họp nhau cầu nguyện, ở đó có Người, và nơi đâu có Người thì sự dữ không thể tồn tại nữa»[56].

2. Ơn gọi sống đời trinh khiết và độc thân

34. Mạc khải Kitô giáo trình bày hai ơn gọi hướng đến tình yêu: ơn gọi sống đời hôn nhân và ơn gọi sống đời trinh khiết. Không hiếm khi, trong một số xã hội hiện nay, người ta chứng kiến khủng hoảng không chỉ nơi hôn nhân và gia đình, mà cả nơi ơn gọi linh mục và đời sống tu trì. Hai bậc sống này không thể tách rời nhau: «Khi người ta không còn trân trọng đời sống hôn nhân, thì cũng không thể tồn tại đời sống trinh khiết thánh hiến; khi tính dục con người không còn được nhìn nhận như một giá trị cao quý do Đấng Tạo Hóa trao ban, thì việc từ bỏ nó vì Nước Trời cũng mất hết ý nghĩa»[57].

Sự tan vỡ gia đình kéo theo tình trạng thiếu hụt ơn gọi; ngược lại, nơi đâu cha mẹ quảng đại trong việc đón nhận sự sống, thì nơi đó con cái cũng dễ dàng quảng đại khi phải đối diện với lời mời gọi hiến thân cho Thiên Chúa: «Các gia đình cần tái thể hiện tình yêu quảng đại đối với sự sống, và đặt mình phục vụ sự sống ấy, trước hết bằng việc đón nhận – trong tinh thần trách nhiệm đi liền với niềm tín thác an hòa – những người con mà Chúa muốn ban cho họ»; và sự đón nhận ấy cần được đưa đến chỗ hoàn tất không chỉ «bằng một nỗ lực giáo dục liên lỉ, nhưng còn nhờ sự dấn thân cần thiết để trợ giúp nhất là các thiếu niên và giới trẻ nhận ra chiều kích ơn gọi nơi mỗi cuộc đời, trong kế hoạch của Thiên Chúa… Đời sống con người đạt tới sự viên mãn khi nó trở thành một quà tặng của chính mình: một quà tặng có thể được diễn đạt trong đời sống hôn nhân, trong đời sống trinh khiết thánh hiến, trong sự dấn thân phục vụ tha nhân vì một lý tưởng, hay trong sự chọn lựa chức linh mục thừa tác. Cha mẹ sẽ thực sự phục vụ sự sống của con cái mình, nếu họ giúp chúng biến cuộc đời mình thành một quà tặng, tôn trọng những chọn lựa trưởng thành và chín chắn của chúng, đồng thời vui mừng khích lệ mọi ơn gọi, kể cả ơn gọi linh mục và tu sĩ»[58].

Vì lý do này, khi bàn đến việc giáo dục giới tính trong Tông huấn Familiaris Consortio (Những Bổn Phận của Gia Đình), Đức Gioan Phaolô II quả quyết: «Cha mẹ Kitô hữu sẽ dành sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt, biết phân định các dấu chỉ của lời mời gọi Thiên Chúa, để việc giáo dục về đời sống trinh khiết trở thành hình thức trổi vượt của sự tự hiến, vốn làm nên ý nghĩa sâu xa nhất của tính dục con người»[59].

Cha mẹ và ơn gọi linh mục cũng như đời sống tu trì

35. Vì thế, cha mẹ hãy vui mừng nếu nơi một người con nào đó họ nhận thấy những dấu chỉ của Thiên Chúa kêu mời đến ơn gọi cao cả hơn là sống đời khiết tịnh hay sống độc thân vì tình yêu Nước Trời. Khi ấy, cha mẹ cần điều chỉnh việc huấn luyện hướng tới đức ái thanh khiết sao cho phù hợp với nhu cầu của người con, khích lệ họ tiến bước trên con đường riêng cho tới khi bước vào chủng viện hay nhà đào luyện (casa di formazione), hoặc cho đến khi ơn gọi chuyên biệt ấy đạt tới sự trưởng thành trong việc hiến thân với một trái tim không chia sẻ.

Cha mẹ phải tôn trọng và trân quý sự tự do của từng người con, khuyến khích ơn gọi riêng của họ, chứ không tìm cách áp đặt cho họ một ơn gọi đã được định sẵn theo ý mình.

Công đồng Vaticanô II đã minh nhiên nhắc đến bổn phận đặc thù và cao quý này của cha mẹ, với sự nâng đỡ của các nhà giáo dục và các linh mục trong công việc của họ: «Cha mẹ, khi chăm lo giáo dục Kitô giáo cho con cái, hãy vun trồng và gìn giữ trong lòng con cái mình ơn gọi tu trì»[60]. «Bổn phận làm phát triển các ơn gọi linh mục thuộc về toàn thể cộng đồng Kitô giáo…; trong đó, sự đóng góp to lớn nhất trước tiên đến từ các gia đình, những gia đình được thấm nhuần tinh thần đức tin, đức mến và lòng đạo đức, trở thành như một “chủng viện sơ khởi”; đồng thời, cũng đến từ các giáo xứ, nơi các thiếu niên được tham dự vào một đời sống thiêng liêng phong phú và đa dạng»[61]. «Còn đối với các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục, và nói chung cho tất cả những ai ở mức độ này hay mức độ khác tham dự vào việc giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, họ có bổn phận dạy dỗ chúng theo cách thức giúp chúng nhận ra sự chăm sóc của Chúa dành cho đoàn chiên Người, lưu tâm đến những nhu cầu của Giáo Hội, để sẵn sàng đáp lại với lòng quảng đại lời kêu gọi của Chúa, và thưa với Người như ngôn sứ đã thưa: “Này con đây, xin sai con đi” (Is 6,8)»[62].

Môi trường gia đình thiết yếu này đối với sự trưởng thành của các ơn gọi linh mục và tu trì cũng gợi nhớ đến thực trạng nghiêm trọng nơi nhiều gia đình, đặc biệt tại một số quốc gia, những gia đình nghèo nàn sức sống, bởi cố tình không có con hoặc chỉ có một người con; trong hoàn cảnh đó, thật khó phát sinh các ơn gọi, cũng như khó có thể thực hiện việc đào luyện nhân bản và xã hội một cách trọn vẹn.

36. Hơn nữa, gia đình Kitô giáo đích thật sẽ có khả năng giúp con cái hiểu được giá trị của đời sống độc thân Kitô giáo và đức khiết tịnh, ngay cả đối với những người con không kết hôn hoặc không thể kết hôn vì những lý do nằm ngoài ý muốn của họ. Nếu được đào luyện tốt ngay từ tuổi thơ và thời niên thiếu, chúng sẽ có thể đối diện với hoàn cảnh riêng của mình cách dễ dàng hơn. Hơn thế nữa, với lòng ngay chính, chúng có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong hoàn cảnh ấy và nhờ đó tìm thấy ý nghĩa ơn gọi cũng như sự bình an trong đời sống của chính mình[63]. Đối với những người này, đặc biệt là khi họ mang một số khuyết tật thể lý nào đó, điều cần thiết là phải khơi mở nơi họ những tiềm năng lớn lao để phát triển bản thân và đạt đến sự phong phú trong đời sống thiêng liêng – một khả năng được trao ban cho bất kỳ ai, miễn là được nâng đỡ bởi đức tin và bởi Tình yêu Thiên Chúa, và dấn thân phục vụ những anh chị em nghèo khổ và túng thiếu nhất.

IV. CHA MẸ VỚI TƯ CÁCH LÀ NHÀ GIÁO DỤC

37. Khi ban cho đôi vợ chồng đặc ân và trách nhiệm lớn lao là trở thành cha mẹ, Thiên Chúa trao ban cho họ ân sủng để chu toàn sứ mạng ấy cách xứng hợp. Hơn nữa, trong bổn phận giáo dục con cái, họ được soi sáng bởi «hai chân lý căn bản: thứ nhất, con người được mời gọi sống trong chân lý và tình yêu; thứ hai, mỗi người được hoàn thành chính mình nhờ việc tự hiến chân thành”[64]. Là vợ chồng, là cha mẹ và là thừa tác viên của ân sủng trong Bí tích Hôn phối, họ ngày ngày được nâng đỡ bởi Đức Giêsu Kitô – Đấng, với những năng lực đặc biệt thuộc trật tự siêu nhiên, yêu thương và nuôi dưỡng Giáo Hội, Hiền Thê của Người.

Trong tư cách vợ chồng, trở nên «một xương một thịt» nhờ mối dây hôn phối, họ cùng chia sẻ bổn phận giáo dục con cái nhờ sự cộng tác sẵn sàng, được nuôi dưỡng bởi một cuộc đối thoại mạnh mẽ và chân thành với nhau, bởi vì «Bí tích Hôn phối có một nguồn mạch mới mẻ và đặc thù: nó thánh hiến họ cho việc giáo dục Kitô giáo đích thực của con cái, mời gọi họ tham dự vào chính quyền bính và chính tình yêu của Chúa Cha và của Đức Kitô Mục Tử, cũng như vào tình mẫu tử của Giáo Hội; và nó làm cho họ được phong phú nhờ ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn sức mạnh, cùng mọi ân huệ khác của Chúa Thánh Thần, để giúp con cái lớn lên về phương diện nhân bản và Kitô giáo»[65].

38. Trong bối cảnh huấn luyện về đức khiết tịnh, «tình phụ tử – tình mẫu tử» hiển nhiên bao gồm cả người cha hoặc người mẹ ở trong hoàn cảnh đơn thân, cũng như những cha mẹ nuôi. Chắc chắn, bổn phận của bậc cha mẹ đơn thân không hề dễ dàng, bởi thiếu vắng sự nâng đỡ của người bạn đời, và cùng với người ấy là vai trò cũng như gương mẫu của một người cha hay một người mẹ thuộc giới tính khác. Tuy nhiên, Thiên Chúa nâng đỡ cha mẹ đơn thân bằng một tình yêu đặc biệt: Người kêu gọi họ đảm nhận phận vụ này với cùng một lòng quảng đại và sự nhạy cảm, như khi họ yêu thương và chăm sóc con cái mình trong mọi phương diện khác của đời sống gia đình.

39. Trong một số trường hợp, có những người khác được mời gọi để đảm nhận chỗ của cha mẹ: chẳng hạn, những người gánh vác lâu dài vai trò làm cha mẹ đối với các trẻ em mồ côi hoặc bị bỏ rơi. Trên họ cũng đặt nặng bổn phận giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên cách toàn diện, kể cả trong lãnh vực đức khiết tịnh; và họ sẽ nhận được ân sủng theo bậc sống của mình để thi hành phận vụ này, dựa trên cùng những nguyên tắc đang hướng dẫn các bậc cha mẹ Kitô hữu.

40. Cha mẹ không bao giờ được cảm thấy đơn độc trong bổn phận này. Giáo Hội nâng đỡ và khích lệ họ, với niềm xác tín rằng họ có thể chu toàn chức năng ấy tốt hơn bất kỳ ai khác.

Giáo Hội cũng an ủi và khích lệ những người nam hay nữ, vốn thường phải hy sinh cách cao thượng, khi họ đem lại cho các trẻ em mồ côi một hình thức của tình yêu cha mẹ và đời sống gia đình. Dù sao đi nữa, tất cả mọi người đều phải tiếp cận bổn phận này trong tinh thần cầu nguyện, với thái độ cởi mở và vâng phục đối với những chân lý luân lý của đức tin và lý trí vốn kết hợp với giáo huấn của Giáo Hội, và luôn luôn nhìn nhận trẻ em cũng như thanh thiếu niên như những nhân vị, con cái Thiên Chúa và những người thừa hưởng Nước Trời.

Quyền lợi và nghĩa vụ của cha mẹ

41. Trước khi đi vào các chi tiết thực hành của việc huấn luyện người trẻ về đức khiết tịnh, điều hết sức quan trọng là cha mẹ ý thức về các quyền và bổn phận của mình, đặc biệt khi phải đối diện với Nhà nước và với nhà trường vốn có xu hướng nắm lấy sáng kiến trong lãnh vực giáo dục tính dục.

Trong Tông huấn Familiaris Consortio, Thánh Gioan Phaolô II tái khẳng định: «Quyền–bổn phận giáo dục của cha mẹ được xác định là thiết yếu, vì gắn liền với việc truyền thông sự sống con người; là nguyên thủy và tiên khởi so với công tác giáo dục của những chủ thể khác, do tính độc nhất của mối tương quan yêu thương giữa cha mẹ và con cái; là bất khả thay thế và bất khả chuyển nhượng; vì thế không thể hoàn toàn ủy thác cho người khác, cũng như không thể để người khác tiếm quyền»[66]; ngoại trừ trường hợp bất khả kháng về phương diện thể lý hoặc tâm lý, như đã được nhắc ở phần đầu.

42. Giáo thuyết này dựa trên giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II[67], và cũng được Hiến Chương về các Quyền của Gia đình tuyên bố: «Vì đã trao ban sự sống cho con cái, cha mẹ có quyền nguyên thủy, tiên khởi và bất khả chuyển nhượng trong việc giáo dục chúng; họ có quyền giáo dục con cái mình phù hợp với những xác tín luân lý và tôn giáo của họ, đồng thời lưu tâm đến các truyền thống văn hóa gia đình vốn thăng tiến thiện ích và phẩm giá của đứa trẻ; hơn nữa, họ còn phải nhận được từ xã hội sự trợ giúp và nâng đỡ cần thiết để có thể thi hành cách xứng hợp vai trò giáo dục của mình»[68].

43. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng điều này có giá trị đặc biệt đối với lãnh vực tính dục: «Việc giáo dục giới tính, vốn là quyền lợi và bổn phận nền tảng của cha mẹ, phải luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của họ, dù tại gia đình hay tại các trung tâm giáo dục do họ chọn lựa và giám sát. Trong ý hướng này, Giáo Hội tái khẳng định nguyên tắc bổ trợ (sussidiarietà; SGLC số 1883), nguyên tắc mà nhà trường buộc phải tuân giữ khi cộng tác trong việc giáo dục giới tính, đặt mình trong cùng một tinh thần vốn thúc đẩy cha mẹ»[69].

Đức Thánh Cha nói thêm: «Do mối liên hệ mật thiết giữa chiều kích tính dục của con người và các giá trị luân lý của nó, bổn phận giáo dục phải dẫn đưa con cái đến chỗ nhận biết và trân trọng các chuẩn mực luân lý như là sự bảo chứng cần thiết và quý giá cho một sự trưởng thành có trách nhiệm trong lãnh vực tính dục nhân bản»[70]. Một khi đã được chuẩn bị cách thích đáng, không ai có thể chu toàn việc giáo dục luân lý trong lãnh vực tế nhị này tốt hơn cha mẹ.

Ý nghĩa của bổn phận làm cha mẹ

44. Quyền lợi này đồng thời cũng bao hàm một bổn phận giáo dục: nếu trên thực tế cha mẹ không trao ban cho con cái một sự huấn luyện thích đáng về đức khiết tịnh, thì chính họ đã lẩn tránh một bổn phận nghiêm túc của mình; cũng thế, họ không thể vô tội nếu dung túng để con cái mình tiếp nhận một sự huấn luyện phi luân hay bất xứng từ bên ngoài gia đình.

45. Ngày nay, bổn phận này gặp phải một khó khăn đặc biệt liên quan đến sự lan tràn của nạn khiêu dâm, vốn được phổ biến qua các phương tiện truyền thông xã hội, chịu sự chi phối của những toan tính thương mại và làm biến dạng sự nhạy cảm của giới trẻ đang tuổi vị thành niên. Trước thực trạng đó, nơi cha mẹ cần có một sự quan tâm kép: vừa thực hiện một nền giáo dục mang tính phòng ngừa và phê phán đối với con cái, vừa can đảm lên tiếng tố giác với nhà chức trách một cách thích đáng. Cha mẹ, với tư cách là từng cá nhân hay trong sự liên kết với nhau, có quyền lợi và nghĩa vụ cổ võ điều thiện cho con cái mình, đồng thời đòi hỏi nơi các nhà chức trách việc ban hành những đạo luật nhằm ngăn ngừa và loại bỏ việc khai thác sự nhạy cảm của trẻ em và thanh thiếu niên[71].

46. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến bổn phận này của cha mẹ, đồng thời phác họa định hướng và mục tiêu như sau: «Đứng trước một nền văn hóa đang “tầm thường hóa” phần lớn tính dục con người, khi diễn giải và sống tính dục một cách thu hẹp và nghèo nàn, chỉ gắn liền nó với thân xác và khoái lạc ích kỷ, thì trách vụ giáo dục của cha mẹ phải kiên quyết hướng đến việc xây dựng một nền văn hóa tính dục thực sự và trọn vẹn mang tính nhân vị. Thật vậy, tính dục là một sự phong phú của toàn thể con người – thân xác, tình cảm và linh hồn – và nó bày tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của mình bằng cách dẫn đưa nhân vị đến việc hiến thân trong tình yêu»[72].

47. Tuy nhiên, chúng ta không thể quên rằng việc giáo dục là một quyền-lợi và bổn phận, điều mà trong quá khứ các bậc cha mẹ Kitô hữu ít khi ý thức và thi hành, có lẽ vì vấn đề này chưa mang tính nghiêm trọng như ngày nay; hoặc bởi vì trách nhiệm của họ phần nào đã được thay thế nhờ sức mạnh của các mẫu mực xã hội đương thời, và hơn nữa, bởi sự đảm nhận vai trò bổ trợ trong lãnh vực này của Giáo Hội và các trường Công Giáo. Ngày nay, thật không dễ để cha mẹ đảm nhận dấn thân giáo dục này, bởi nó tỏ ra hết sức phức tạp và vượt quá khả năng riêng của gia đình, và vì trong đa số trường hợp con cái không thể lấy nơi cha mẹ mình một điểm tham chiếu ở lãnh vực ấy.

Do đó, Giáo Hội xác tín rằng đây là bổn phận của mình: góp phần, kể cả qua tài liệu này, để khôi phục cho cha mẹ niềm tín thác vào chính khả năng của họ, đồng thời nâng đỡ họ trong việc chu toàn trách nhiệm của mình.

V. NHỮNG HÀNH TRÌNH GIÁO DỤC TRONG LÒNG GIA ĐÌNH

48. Bởi vậy, gia đình là môi trường thông thường và tự nhiên (il luogo normale ed ordinario) để đào luyện trẻ em và thanh thiếu niên trong việc củng cố và thực hành các nhân đức: đức ái, đức tiết độ, đức can đảm, và sau đó là đức khiết tịnh. Thật vậy, như là Hội Thánh tại gia, gia đình là ngôi trường phong phú nhất về nhân tính (la scuola della più ricca umanità)[73]. Điều này lại càng đúng hơn trong lãnh vực giáo dục luân lý và thiêng liêng, đặc biệt đối với một vấn đề rất tế nhị như đức khiết tịnh: trong đó đan xen các khía cạnh thể lý, tâm lý và thiêng liêng; những gợi hứng về tự do và ảnh hưởng của các khuôn mẫu xã hội; sự e thẹn tự nhiên và những xu hướng mạnh mẽ vốn gắn liền với tính xác phàm của con người. Tất cả những yếu tố ấy được liên kết với nhau trong sự ý thức — dẫu chỉ tiềm ẩn — về phẩm giá của nhân vị, vốn được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa, đồng thời lại mang nơi mình sự mỏng manh dễ tổn thương. Trong một mái nhà Kitô hữu, cha mẹ có sức mạnh để dẫn dắt con cái đến sự trưởng thành thực sự Kitô giáo nơi nhân cách của chúng, theo tầm vóc của Đức Kitô, trong Thân Thể mầu nhiệm của Người là Giáo Hội[74].

Tuy nhiên, mặc dù giàu sức mạnh ấy, gia đình cũng cần sự nâng đỡ từ phía Nhà nước và xã hội, theo nguyên tắc bổ trợ: «Có những lúc… khi gia đình quyết định sống trọn vẹn ơn gọi của mình, thì lại không tìm thấy sự hỗ trợ cần thiết từ phía Nhà nước và không có đủ nguồn lực. Cần khẩn thiết thăng tiến không chỉ những chính sách về gia đình, mà còn cả những chính sách xã hội, những chính sách lấy gia đình làm mục tiêu trọng yếu, nâng đỡ gia đình bằng cách bảo đảm cho họ có được nguồn lực xứng hợp và những phương thế hỗ trợ hữu hiệu, cả trong việc giáo dục con cái lẫn trong việc chăm sóc người cao tuổi»[75].

49. Nhận thức được điều ấy, và cả những khó khăn thực tế mà giới trẻ hiện nay đang phải đối diện ở không ít quốc gia, nhất là trước những nhân tố gây suy thoái xã hội và luân lý, cha mẹ được kêu gọi phải can đảm dám đòi hỏi và dám đề xuất nhiều hơn nữa. Họ không thể chỉ dừng lại ở mức “tránh được điều tệ hại nhất” — nghĩa là con cái không sa vào ma túy hay không phạm tội — nhưng cần phải dấn thân giáo dục con cái hướng tới những giá trị đích thực của nhân vị, được canh tân bởi các nhân đức tin, cậy, mến: đó là tự do, trách nhiệm, tình phụ tử và tình mẫu tử, tinh thần phục vụ, lao động chuyên môn, sự liên đới, trung thực, nghệ thuật, thể thao, và niềm vui biết mình là con cái Thiên Chúa, nhờ đó cũng là anh chị em của mọi người, v.v.

Giá trị cốt yếu của mái ấm gia đình

50. Các khoa tâm lý học và sư phạm, trong những thành tựu gần đây nhất, cùng với kinh nghiệm, đều nhấn mạnh tầm quan trọng mang tính quyết định của bầu khí tình cảm ngự trị trong gia đình đối với một nền giáo dục tính dục hài hòa và đúng đắn, đặc biệt trong những năm đầu đời của tuổi thơ ấu và niên thiếu, và có lẽ ngay cả trong giai đoạn tiền sản, là những thời kỳ mà các động lực tình cảm sâu xa nơi trẻ được hình thành. Người ta cũng nêu bật tầm quan trọng của sự quân bình, sự đón nhận và sự thấu hiểu nơi đôi vợ chồng. Đồng thời, nhấn mạnh đến giá trị của sự bình an trong tương quan giữa vợ chồng, đến sự hiện diện tích cực của họ – cả người cha lẫn người mẹ – trong những năm then chốt cho tiến trình hình thành căn tính của trẻ, cũng như đến mối tương quan chan chứa tình thương, đem lại cho trẻ cảm giác an toàn.

51. Những thiếu sót nghiêm trọng hoặc sự mất quân bình trong tương quan vợ chồng (chẳng hạn như sự vắng mặt của cha, mẹ, hay cả hai trong đời sống gia đình; sự thờ ơ trong việc giáo dục; hoặc sự nghiêm khắc quá mức) là những yếu tố có thể gây rối loạn tình cảm và tâm lý nơi trẻ em, làm tổn thương sâu sắc tuổi niên thiếu và đôi khi để lại dấu ấn suốt cả đời. Điều cần thiết là cha mẹ phải dành thời gian ở bên con cái và đối thoại với chúng. Con cái – vừa là hồng ân vừa là bổn phận – là trách vụ quan trọng nhất của cha mẹ: chúng còn trên cả công việc, trên cả giải trí, trên cả địa vị xã hội, cho dù bề ngoài xem ra chẳng đem lại lợi ích nào tức thì. Trong những lần trò chuyện như thế – và ngày càng nhiều hơn theo dòng năm tháng – cha mẹ cần biết lắng nghe con cái cách chăm chú, cố gắng thấu hiểu, nhận ra phần sự thật có thể ẩn giấu trong một số thái độ phản kháng hay nổi loạn. Đồng thời, cha mẹ có thể giúp chúng định hướng đúng đắn những lo âu và khát vọng, dạy chúng biết suy nghĩ trước sự thật của mọi vấn đề và biết lý luận (riflettere sulla realtà delle cose e a ragionare). Điều này không có nghĩa là áp đặt một lối sống hay một cách hành xử cứng nhắc, nhưng là để cho thấy những động lực – vừa siêu nhiên vừa nhân loại – làm nền tảng cho những đề nghị ấy. Cha mẹ sẽ thành công hơn nếu, với tình yêu, họ biết dành thời gian cho con cái và thật sự đặt mình vào vị trí của chúng.

Huấn luyện trong cộng đồng hiệp thông sự sống và tình yêu

52. Gia đình Kitô giáo có khả năng trao ban một bầu khí thấm nhuần tình yêu đối với Thiên Chúa, nhờ đó có thể phát sinh một sự hiến tặng hỗ tương đích thực[76]. Những trẻ em nào được sống kinh nghiệm này sẽ được chuẩn bị tốt hơn để bước theo chân lý luân lý mà chúng thấy được thực hành nơi đời sống cha mẹ. Chúng sẽ tín thác nơi cha mẹ và học biết thứ tình yêu giúp chúng vượt thắng sợ hãi, bởi lẽ không có gì khơi dậy tình yêu mạnh mẽ cho bằng ý thức rằng mình được yêu thương. Như thế, mối dây yêu thương lẫn nhau, được minh chứng qua tình yêu cha mẹ dành cho con cái, sẽ trở nên hàng rào bảo vệ vững chắc cho sự an ổn tình cảm của chúng. Mối dây ấy tinh luyện trí tuệ, ý chí và tình cảm, bằng cách loại bỏ mọi thứ có thể làm biến chất hay hạ giá trị hồng ân của tính dục con người, vốn – trong một gia đình nơi tình yêu ngự trị – luôn được hiểu như một phần của lời mời gọi hiến thân trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân: «Gia đình là trường học đầu tiên và căn bản của đời sống xã hội: với tư cách là cộng đồng yêu thương, gia đình tìm thấy trong sự tự hiến quy luật dẫn dắt, đào luyện và làm tăng trưởng chính mình. Sự tự hiến này, vốn truyền cảm hứng cho tình yêu vợ chồng, trở nên mẫu mực và tiêu chuẩn cho sự tự hiến phải được thể hiện trong các mối tương quan giữa anh chị em, cũng như giữa các thế hệ đang chung sống trong gia đình. Sự hiệp thông và chia sẻ được sống hằng ngày trong mái ấm – cả khi vui mừng lẫn lúc gian nan – chính là trường sư phạm cụ thể và hữu hiệu nhất để con cái biết dấn thân cách tích cực, có trách nhiệm và sinh hoa kết quả trong môi trường xã hội rộng lớn hơn»[77].

53. Về căn bản, việc giáo dục hướng đến tình yêu đích thực chỉ có thể thành tựu khi tình yêu ấy trở nên tình yêu nhân hậu, nghĩa là biết đón nhận người mình yêu, coi thiện ích của họ như chính thiện ích của mình; và vì thế, nó bao hàm việc huấn luyện để có những mối tương quan đúng đắn với tha nhân. Cần phải dạy cho trẻ em, thiếu niên và thanh niên cách bước vào những mối quan hệ lành mạnh với Thiên Chúa, với cha mẹ, với anh chị em, với bà con thân thuộc, với bạn bè đồng giới hay khác giới, cũng như với người lớn.

54. Cũng không được quên rằng việc giáo dục tình yêu là một thực tại toàn diện (l’educazione all’amore è una realtà globale): không thể tiến bộ trong việc xây dựng những mối tương quan đúng đắn với một người mà lại không đồng thời thực hiện điều đó với mọi người khác. Như đã nói, vì là giáo dục tình yêu, nên giáo dục về đức khiết tịnh đồng thời là việc giáo dục tinh thần, giáo dục cảm quan và tình cảm. Thái độ đối với tha nhân tùy thuộc rất nhiều vào cách người ta quản trị những tình cảm bột phát đối với họ: nuôi dưỡng tình cảm này, khống chế tình cảm kia. Với tư cách là một nhân đức, đức khiết tịnh không bao giờ bị giản lược thành một vấn đề thuần túy về khả năng thực hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực hạnh kiểm bên ngoài; nhưng nó đòi hỏi phải khơi dậy và phát triển những năng động tính nơi bản tính tự nhiên cũng như ân sủng. Chính những năng động tính này làm nên yếu tố chính yếu và nội tại, qua đó chúng ta khám phá luật của Thiên Chúa như là bảo chứng cho sự trưởng thành và tự do[78].

55. Do đó, cần ghi nhận rằng việc giáo dục đức khiết tịnh không thể tách rời khỏi bổn phận vun trồng tất cả các nhân đức khác, và cách riêng là tình yêu Kitô giáo, vốn được đặc trưng bởi sự tôn trọng, vị tha, phục vụ, và xét cho cùng, được gọi là đức ái. Tính dục là một thiện ích có tầm quan trọng lớn lao, cần được bảo vệ trong trật tự của lý trí được soi sáng bởi đức tin: «Một sự thiện càng cao cả, thì càng phải được tuân giữ trong trật tự của lý trí»[79]. Từ đó suy ra rằng để giáo dục về đức khiết tịnh, «cần đến sự tự chủ, vốn bao hàm những nhân đức khác như khiêm nhu, tiết độ, tôn trọng bản thân và tha nhân, cũng như sự cởi mở đối với tha nhân»[80].

Những nhân đức này quan trọng đến nỗi, trong truyền thống Kitô giáo, chúng được gọi là những tiểu muội (sorelle minori: chị em nhỏ) của đức khiết tịnh (chẳng hạn như đức nết na, thái độ sẵn sàng hy sinh ý riêng). Chúng được nuôi dưỡng nhờ đức tin và đời sống cầu nguyện.

Sự thẹn thùng và đức nết na

56. Việc thực hành sống đoan trang và nết na (la pratica del pudore e della modestia) trong lời nói, hành vi và cách ăn mặc có tầm quan trọng đặc biệt để tạo nên bầu khí thuận lợi cho việc trưởng thành trong đức khiết tịnh. Tuy nhiên, điều này chỉ có giá trị thực sự khi được thúc đẩy bởi lòng tôn trọng thân xác chính mình và phẩm giá của tha nhân. Như đã nói, cha mẹ cần cảnh giác để các trào lưu thời trang hay lối sống vô đạo đức không làm tổn hại đến sự trong lành của gia đình, đặc biệt là qua việc lạm dụng các phương tiện truyền thông đại chúng (mass media )[81]. Về điểm này, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa cha mẹ – những người trước hết có trách nhiệm giáo dục – với những người điều hành các phương tiện truyền thông ở nhiều cấp độ, cũng như với các cơ quan công quyền, để gia đình không bị bỏ mặc trong một lãnh vực quan trọng của sứ mạng giáo dục. Thực tế, cần phải công nhận và khuyến khích những đề xuất, nội dung và chương trình mang tính giải trí lành mạnh, cung cấp thông tin và hỗ trợ giáo dục, như một sự bổ sung cần thiết cho vai trò của gia đình và nhà trường. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là ở một số quốc gia, các chương trình và ấn phẩm đầy bạo lực vẫn được phổ biến rộng rãi, tạo nên một kiểu “oanh tạc” bằng các thông điệp phá hoại các nguyên tắc luân lý, làm cho việc chuyển giao những giá trị xứng hợp với phẩm giá con người trở nên vô cùng khó khăn»[82].

Riêng về việc sử dụng truyền hình, Đức Thánh Cha lưu ý rằng lối sống hiện đại – đặc biệt ở các quốc gia công nghiệp hóa – thường dẫn đến việc các gia đình buông bỏ trách nhiệm giáo dục, dễ dàng tìm đến sự “thoát ly” bằng cách để truyền hình và một số ấn phẩm thay thế cho sự hiện diện của cha mẹ trong gia đình. Cha mẹ cảm thấy được “giải phóng” để làm việc khác, trong khi thời gian và hoạt động của trẻ em, thanh thiếu niên bị chiếm dụng hoàn toàn. Điều này đôi khi có lý do chính đáng, vì ở nhiều nơi thiếu cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết để giúp giới trẻ sử dụng thời gian rảnh cách hữu ích và định hướng năng lượng của mình»[83]. Thêm vào đó, việc cả cha lẫn mẹ đều bận rộn với công việc – cả trong và ngoài gia đình – càng làm gia tăng nguy cơ bỏ bê con cái. Chính những trẻ em ấy, vốn cần được nâng đỡ nhiều nhất để phát triển một “tự do có trách nhiệm” , lại trở thành những người phải gánh chịu hậu quả. Do đó, xuất hiện một bổn phận khẩn thiết – đặc biệt đối với các tín hữu, những người nam nữ yêu chuộng tự do – là bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên khỏi những “cuộc tấn công” từ các phương tiện truyền thông. Ước gì không ai thoái thác trách nhiệm này bằng những lý do biện minh quá dễ dãi!»[84]; «Với tư cách là những người có trách nhiệm giáo dục, chính cha mẹ phải trở nên chủ động trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông một cách điều độ, có chọn lọc, tỉnh táo và khôn ngoan»[85].

Quyền riêng tư chính đáng

57. Tôn trọng đời tư cần được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với sự thẹn thùng và nết na, vốn là sự bảo vệ tự nhiên của con người, giúp người ta từ chối bị nhìn nhận và đối xử như một đối tượng của khoái lạc, thay vì được tôn trọng và yêu thương vì chính bản thân mình. Nếu một em bé hay một bạn trẻ thấy rằng người ta tôn trọng quyền riêng tư chính đáng (intimità) của mình, thì nó sẽ hiểu rằng người ta cũng mong đợi nó có thái độ tương tự đối với người khác. Bằng cách đó, chúng học cách vun trồng tinh thần trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa, phát triển đời sống nội tâm và nếm trải sự tự do cá nhân, điều này làm cho chúng có khả năng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân tốt hơn.

Sự tự chủ

58. Tất cả những điều trên nhắc nhở chúng ta, một cách tổng quát hơn, về sự tự chủ (l’autodominio), điều kiện thiết yếu để có khả năng tự hiến. Trẻ em và thanh thiếu niên cần được khuyến khích biết trân trọng và thực hành sự tự chủ cũng như sự thận trọng, để sống có kỷ luật và trật tự, biết hy sinh cá nhân trong tinh thần yêu mến Thiên Chúa, có lòng tự trọng và quảng đại với tha nhân; không bóp nghẹt những tình cảm và khuynh hướng tự nhiên, nhưng biết hướng chúng vào một đời sống nhân đức.

Cha mẹ như là những khuôn mẫu cho chính con cái mình

59. Gương sáng và “cương vị lãnh đạo” của cha mẹ là điều thiết yếu để củng cố việc huấn luyện giới trẻ trong đức khiết tịnh. Người mẹ biết trân trọng ơn gọi làm mẹ và vị trí của mình trong gia đình sẽ góp phần rất lớn vào việc giúp các cô con gái phát triển những phẩm chất nữ tính và mẫu tính, đồng thời đặt trước mắt các cậu con trai một mẫu gương rõ ràng, mạnh mẽ và cao quý về người phụ nữ[86]. Người cha, khi định hình đời sống của mình theo một phong cách nam tính đầy phẩm giá, không rơi vào não trạng trọng nam khinh nữ (maschilista), sẽ trở thành một mẫu gương lôi cuốn cho các con trai, đồng thời khơi dậy nơi các con gái lòng kính trọng, sự ngưỡng mộ và cảm giác an toàn[87].

60. Điều này cũng có giá trị cho việc giáo dục tinh thần hy sinh, đặc biệt trong các gia đình ngày nay, hơn bao giờ hết đang chịu áp lực từ lối sống duy vật và tiêu thụ. Chỉ bằng cách ấy, con cái mới có thể lớn lên «trong sự tự do chân chính khi đối diện với của cải vật chất, bằng cách chọn một lối sống giản dị và khắc khổ, hoàn toàn xác tín rằng “con người có giá trị do bởi những gì họ  hơn do bởi những gì họ ». Trong một xã hội bị lay chuyển và phân hóa bởi những căng thẳng và xung đột, do sự va chạm dữ dội giữa nhiều loại chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ, con cái cần được bồi dưỡng không chỉ bằng cảm thức về công bằng đích thực – vốn là điều duy nhất có thể đưa đến sự tôn trọng phẩm giá riêng của mỗi người – mà còn, và hơn hết, bằng cảm thức về tình yêu đích thực, được hiểu như là sự quan tâm chân thành và việc phục vụ vô vị lợi đối với tha nhân, đặc biệt là đối với những người nghèo khổ và túng thiếu nhất»[88]; «việc giáo dục toàn diện được đặt trong viễn tượng của “nền văn minh tình yêu”; nó dựa vào nền văn minh ấy, và ở tầm vóc vĩ mô, góp phần xây dựng nền văn minh ấy»[89].

Một cung thánh của sự sống và của đức tin

61. Không ai có thể phủ nhận rằng gương mẫu đầu tiên và sự trợ giúp lớn nhất mà cha mẹ có thể trao ban cho con cái mình chính là lòng quảng đại trong việc đón nhận sự sống; cũng đừng quên rằng, nhờ đó, cha mẹ giúp con cái bước vào một lối sống giản dị hơn. Hơn nữa, «từ chối cho con cái một số tiện nghi và lợi ích vật chất thì ít xấu hơn là tước đi sự hiện diện của những người anh chị em – những người có thể giúp chúng phát triển nhân tính và nhận ra, cũng như sống trọn, vẻ đẹp của cuộc sống trong mọi giai đoạn và trong toàn thể sự phong phú đa dạng của nó»[90].

62. Cuối cùng, cần ghi nhớ rằng để đạt được tất cả những mục tiêu này, trước hết gia đình phải là ngôi nhà của đức tin và của cầu nguyện: nơi người ta cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha, lắng nghe Lời của Chúa Giêsu, cảm nhận mối dây yêu thương như là quà tặng của Chúa Thánh Thần, yêu mến và khẩn cầu Mẹ cực thanh cực tịnh của Thiên Chúa[91]. Đời sống đức tin và «cầu nguyện ấy mang một nội dung độc đáo, đó chính là đời sống gia đình, vốn trong mọi hoàn cảnh khác nhau, nó được hiểu như là một lời mời gọi từ Thiên Chúa và được sống như một lời đáp trả hiếu thảo trước lời mời gọi ấy. Những niềm vui và nỗi buồn, những hy vọng và thất vọng, những lần sinh nở và sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ, những cuộc ra đi, xa cách và trở về, những chọn lựa quan trọng và quyết định, cái chết của người thân yêu, v.v. – tất cả đều ghi dấu sự can thiệp đầy yêu thương của Thiên Chúa trong lịch sử của gia đình. Và như thế, chúng trở thành những thời điểm thuận lợi cho lời tạ ơn, lời khẩn cầu, và sự phó thác đầy tin tưởng của gia đình vào vị Cha chung ngự trên trời»[92].

63. Trong bầu khí cầu nguyện và ý thức về sự hiện diện cũng như tình phụ tử của Thiên Chúa, các chân lý đức tin và luân lý sẽ được dạy dỗ, được thấu hiểu và thấm nhập với lòng tôn kính; Lời Chúa sẽ được đọc và sống với lòng yêu mến. Nhờ đó, sự thật về Chúa Kitô sẽ kiến tạo nên một cộng đồng gia đình, được xây dựng trên gương sáng và sự hướng dẫn của cha mẹ, «thấm sâu vào lòng con cái và để lại những dấu ấn sâu đậm mà những biến cố cuộc sống sau này cũng không thể xóa nhòa được»[93].

VI. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG VIỆC HỌC BIẾT

64. Cha mẹ có một trách nhiệm đặc biệt trong việc khai tâm cho con cái biết đến những mầu nhiệm của sự sống con người, bởi vì gia đình «là môi trường tốt nhất để chu toàn bổn phận bảo đảm một sự giáo dục tiệm tiến về đời sống tính dục. Gia đình có một chiều kích tình cảm đặc thù, giúp con cái đón nhận mà không bị tổn thương ngay cả những thực tại tế nhị nhất, và biết hòa nhập chúng một cách hài hòa trong một nhân cách phong phú và quân bình»[94].

Bổn phận hàng đầu này của gia đình, như đã được nhắc tới, cũng bao hàm quyền của cha mẹ được bảo đảm rằng con cái mình không bị bắt buộc phải tham dự các khóa học về vấn đề này tại trường, khi những nội dung ấy có thể trái ngược với các xác tín tôn giáo và luân lý của họ[95]. Thật vậy, nhiệm vụ của trường học không phải là thay thế gia đình, nhưng đúng hơn là «hỗ trợ và bổ sung công việc của cha mẹ, cung cấp cho trẻ em và thanh thiếu niên một sự lượng giá về tính dục như là một giá trị và một phận vụ của toàn thể con người – được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, có nam và có nữ»[96].

Liên quan đến điều này, cần ghi nhớ giáo huấn của Đức Thánh Cha trong Tông huấn Familiaris Consortio: «Giáo Hội kiên quyết phản đối một số hình thức thông tin giới tính tách biệt khỏi những nguyên tắc luân lý, vốn thường được phổ biến như một sự dẫn nhập vào kinh nghiệm khoái lạc, và như một kích thích gây mất bình an – ngay cả trong những năm tháng ngây thơ trong trắng – mở đường cho tật xấu»[97].

Do đó, tài liệu này sẽ đề xuất bốn nguyên tắc tổng quát, và tiếp đó sẽ khảo sát những giai đoạn khác nhau trong sự phát triển của trẻ em.

Bốn nguyên tắc trong việc thông tin giáo dục giới tính

65. 1. Mỗi trẻ em là một nhân vị độc nhất vô nhị, không thể lặp lại, và cần được huấn luyện theo cách thế cá biệt. Bởi vì cha mẹ là những người hiểu biết, cảm thông và yêu thương từng người con trong tính độc đáo riêng của chúng, nên họ ở vị trí thuận lợi nhất để quyết định thời điểm thích hợp để cung cấp những thông tin khác nhau, tùy theo sự trưởng thành thể lý và tinh thần của từng trẻ. Không ai có thể tước bỏ nơi những bậc cha mẹ có lương tâm khả năng phân định này[98].

66. Quá trình trưởng thành của mỗi trẻ em, với tư cách là một nhân vị, là khác nhau. Vì thế, những khía cạnh riêng tư nhất của trẻ, dù về phương diện sinh học hay tình cảm, cần được truyền đạt qua một cuộc đối thoại cá vị[99]. Trong cuộc đối thoại đầy yêu thương và tín thác với từng người con, cha mẹ thông truyền điều gì đó thuộc về sự trao hiến chính mình, nhờ đó họ có thể làm chứng về những khía cạnh tình cảm của tính dục – vốn không thể được truyền đạt bằng cách nào khác.

67. Kinh nghiệm cho thấy rằng cuộc đối thoại này tiến triển tốt hơn khi người cha hoặc người mẹ – là người truyền đạt những thông tin thuộc lãnh vực sinh học, tình cảm, luân lý và thiêng liêng – cùng giới tính với đứa trẻ hoặc người trẻ. Ý thức về vai trò, những tình cảm và các vấn đề liên quan đến giới tính của mình, người mẹ có một mối gắn bó đặc biệt với con gái, cũng như người cha với con trai. Mối dây tự nhiên này cần được tôn trọng; vì thế, người cha hoặc người mẹ khi ở trong hoàn cảnh riêng tư cần hành xử với sự bén nhạy cao độ khi trao đổi với người con khác giới, và có thể chọn giao phó việc truyền đạt những chi tiết thân mật nhất cho một người đáng tin cậy cùng giới tính với đứa trẻ. Trong sự cộng tác mang tính hỗ trợ này, cha mẹ có thể nhờ đến các nhà giáo dục chuyên môn, được đào tạo đầy đủ trong môi trường học đường, giáo xứ hoặc trong các hiệp hội Công giáo.

68. 2. Chiều kích luân lý luôn phải hiện diện trong các lời giải thích của cha mẹ. Cha mẹ có thể nhấn mạnh rằng các Kitô hữu được mời gọi sống quà tặng tính dục theo kế hoạch của Thiên Chúa – Đấng là Tình Yêu – nghĩa là trong bậc sống hôn nhân, trong đời sống khiết tịnh thánh hiến hoặc trong đời sống độc thân[100]. Cần phải nhấn mạnh đến giá trị tích cực của đức khiết tịnh và khả năng của nó trong việc kiến tạo tình yêu đích thực hướng về tha nhân. Đây là khía cạnh luân lý căn bản và quan trọng nhất: chỉ ai biết sống khiết tịnh mới biết yêu thương trong đời sống hôn nhân hoặc trong đời sống khiết tịnh.

69. Ngay từ tuổi ấu thơ, cha mẹ có thể nhận thấy những biểu hiện khởi đầu của hoạt động sinh dục mang tính bản năng nơi trẻ nhỏ. Việc sửa dạy nhẹ nhàng những thói quen ấy – vốn có thể trở thành tội lỗi về sau – không nên bị coi là một hình thức trấn áp, và việc giáo dục dần dần đức nết na luôn cần thiết khi trẻ lớn lên. Điều luôn quan trọng là phải đưa ra một phán đoán luân lý để bác bỏ những thái độ trái ngược với phẩm giá con người và với đức khiết tịnh, và phán đoán ấy cần được biện minh bằng những lý do thích đáng, hợp lý và có sức thuyết phục, cả trên bình diện lý trí lẫn đức tin, trong một khung cảnh tích cực và nâng cao ý niệm về phẩm giá nhân vị. Nhiều lời cảnh báo của cha mẹ chỉ dừng lại ở mức khiển trách hoặc khuyên nhủ, mà con cái cảm nhận như là kết quả của nỗi sợ hãi trước những hậu quả xã hội hoặc sự tai tiếng công khai, hơn là phát xuất từ một tình yêu chăm lo cho thiện ích đích thực của chúng. Thánh Gioan Kim Khẩu khuyên: «Tôi khuyên anh chị em hãy hết sức nỗ lực loại bỏ những thói hư tật xấu và những đam mê đang tấn công chúng ta ở mỗi giai đoạn của cuộc đời. Bởi nếu ở bất kỳ thời kỳ nào của đời sống, chúng ta lèo lái con thuyền cuộc đời mà khinh thường các giá trị đạo đức, và vì thế phải chịu những lần đắm tàu liên tiếp, thì chúng ta có nguy cơ cập bến mà chẳng mang theo được chút lợi lộc thiêng liêng nào»[101].

70. 3. Việc huấn luyện về đức khiết tịnh và việc cung cấp những thông tin thích hợp về tính dục phải diễn ra trong bối cảnh rộng lớn hơn của việc giáo dục về tình yêu. Vì thế, chỉ đơn thuần truyền đạt thông tin về giới tính cùng với các nguyên tắc luân lý khách quan thì vẫn chưa đủ. Cần phải có một sự nâng đỡ liên tục cho sự trưởng thành đời sống thiêng liêng của con cái, để sự phát triển sinh học và những xung năng dục tính mà chúng bắt đầu cảm nghiệm luôn được đồng hành bởi một tình yêu ngày càng lớn đối với Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và Cứu Chuộc, cũng như bởi một ý thức ngày càng sâu xa hơn về phẩm giá của mỗi nhân vị và của chính thân xác mình. Dưới ánh sáng mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Giáo Hội, cha mẹ có thể minh họa những giá trị tích cực của tính dục con người trong bối cảnh ơn gọi tự nhiên của con người hướng tới tình yêu và ơn gọi phổ quát để nên thánh.

71. Vì thế, trong các cuộc đối thoại với con cái, không bao giờ được thiếu những lời khuyên thích hợp, giúp chúng lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, cũng như giúp vượt qua những khó khăn: «Kỷ luật các giác quan và tinh thần; sự tỉnh thức và khôn ngoan trong việc tránh xa các dịp tội; sự gìn giữ đức đoan trang; điều độ trong các sinh hoạt giải trí; dấn thân vào những công việc lành mạnh; chuyên cần cầu nguyện và thường xuyên lãnh nhận các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Cách riêng, người trẻ cần quan tâm nuôi dưỡng lòng sùng kính đối với Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội»[102].

72. Để giáo dục con cái biết lượng giá cách có phê phán và đạt tới sự tự chủ thực sự đối với những môi trường mà chúng thường xuyên lui tới, cũng như để tập cho chúng quen sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng mà không bị lệ thuộc, cha mẹ cần luôn giới thiệu những gương mẫu tích cực và những cách thức thích hợp trong việc dấn thân sử dụng sức sống của mình, trong việc hiểu biết ý nghĩa của tình bạn và của tình liên đới trong bối cảnh rộng lớn của xã hội và của Giáo Hội.

Khi gặp phải những khuynh hướng hay thái độ lệch lạc, cha mẹ cần hết sức khôn ngoan và thận trọng để phân định và lượng giá thấu đáo các hoàn cảnh ấy; đồng thời biết cậy nhờ đến các chuyên gia có nền tảng khoa học và đạo đức vững chắc, hầu nhận diện các nguyên nhân sâu xa vượt quá các triệu chứng bên ngoài, và giúp người liên quan vượt qua khó khăn bằng một phương pháp nghiêm túc và sáng tỏ. Hoạt động sư phạm cần được định hướng trên việc xử lý nguyên nhân hơn là chỉ nhằm trấn áp trực tiếp hiện tượng[103]; và nếu cần thiết, cũng có thể tìm đến sự trợ giúp của những người có chuyên môn, như bác sĩ, nhà giáo dục và các nhà tâm lý học có cảm thức Kitô giáo ngay chính.

73. Mục tiêu của công việc giáo dục là giúp cha mẹ truyền đạt cho con cái niềm xác tín rằng: đức khiết tịnh trong bậc sống riêng của mỗi người vừa khả thi, vừa là nguồn đem lại niềm vui. Niềm vui ấy phát sinh từ sự ý thức về một đời sống tình cảm trưởng thành và hài hòa, vốn là hồng ân Thiên Chúa và là quà tặng của tình yêu, cho phép con người thực hiện sự tự hiến trong phạm vi ơn gọi riêng của mình. Thật vậy, con người là thụ tạo duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính bản thân mình: «Con người không thể tìm gặp chính mình cách trọn vẹn nếu không qua một sự tự hiến chân thành»[104]. «Chúa Kitô đã ban hành những luật lệ chung cho mọi người... Ta không cấm con kết hôn, cũng không ngăn cản niềm vui của con. Ta chỉ muốn con hưởng niềm vui ấy với sự điều độ, không buông tuồng, không sa ngã và không phạm tội. Ta không đặt ra luật buộc các con phải lẩn trốn lên núi hay biến mất trong sa mạc, nhưng mong các con sống lương thiện, tốt lành, đoan trang và trong sạch ngay giữa lòng thành phố»[105].

74. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không bao giờ thiếu trong việc sống đức khiết tịnh, nếu mỗi người nỗ lực dấn thân đúng mức để đáp lại ân sủng của Người. Trong khi giúp đỡ, huấn luyện và tôn trọng lương tâm con cái, cha mẹ phải lo sao cho chúng lãnh nhận các bí tích một cách ý thức, đồng thời dẫn dắt chúng bằng chính gương sáng của mình. Nếu trẻ em và thanh thiếu niên cảm nghiệm được tác động của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa nơi các bí tích, chúng sẽ có khả năng sống đức khiết tịnh như một hồng ân của Thiên Chúa, để làm vinh danh Người và để yêu mến Thiên Chúa cũng như tha nhân. Một trợ giúp thiết yếu và có hiệu quả siêu nhiên chính là việc năng lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, nhất là nếu có thể thường xuyên xưng tội với một cha giải tội cố định. Việc linh hướng, tuy không nhất thiết trùng hợp với vai trò của cha giải tội, vẫn là một sự nâng đỡ quý báu, giúp soi sáng từng bước tiến triển của sự trưởng thành và nâng đỡ tinh thần.

Cũng rất hữu ích là việc đọc những sách đào luyện được chọn lựa và giới thiệu cẩn thận, vừa để cung cấp một nền huấn luyện sâu rộng hơn, vừa để đưa ra những gương sáng và chứng tá trên hành trình nhân đức.

75. Một khi đã xác định rõ các mục tiêu của việc truyền đạt thông tin, cần làm sáng tỏ thời điểm và cách thức để khởi sự ngay từ tuổi thơ ấu.

4. Cha mẹ phải truyền đạt những chỉ dẫn này với sự tinh tế cao độ, nhưng một cách rõ ràng và vào thời điểm thích hợp. Họ hiểu rõ rằng con cái cần được đối xử cách cá vị, tùy theo tình trạng phát triển thể lý và tâm lý của từng em, đồng thời lưu tâm đến môi trường văn hóa nơi trẻ đang sống cũng như những kinh nghiệm mà thiếu niên trải qua trong đời sống hằng ngày. Để cân nhắc kỹ lưỡng điều cần nói với từng người con, điều hết sức quan trọng là chính cha mẹ phải cầu xin ánh sáng của Chúa qua lời cầu nguyện và cùng nhau trao đổi, hầu cho lời nói của họ không quá minh bạch cũng không quá mơ hồ. Trình bày quá nhiều chi tiết cho trẻ nhỏ là điều phản tác dụng, nhưng trì hoãn quá lâu việc cung cấp những thông tin căn bản lại là điều thiếu khôn ngoan. Bởi lẽ, mỗi nhân vị đều có sự tò mò tự nhiên về vấn đề này, và sớm muộn gì cũng sẽ tự đặt câu hỏi, nhất là trong một nền văn hóa nơi người ta có thể thấy quá nhiều điều, kể cả ngay trên đường phố.

76. Thông thường, những thông tin đầu tiên về giới tính được truyền đạt cho trẻ nhỏ không liên quan đến tính dục nơi cơ quan sinh dục, nhưng đến việc mang thai và sự chào đời của một em trai hay em gái. Tính tò mò tự nhiên của trẻ được khơi dậy, chẳng hạn khi em nhận thấy nơi mẹ những dấu hiệu mang thai và cùng sống kinh nghiệm mong chờ một em bé ra đời. Cha mẹ có thể tận dụng kinh nghiệm vui mừng này để truyền đạt đôi điều đơn sơ về việc mang thai, nhưng luôn luôn trong bối cảnh sâu xa hơn của sự kỳ diệu trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng đã muốn cho sự sống mới Người ban được gìn giữ trong thân thể người mẹ, gần trái tim của bà.

Các giai đoạn chính trong sự phát triển của trẻ em

77. Điều quan trọng là cha mẹ phải lưu tâm đến những nhu cầu của con cái trong các giai đoạn phát triển khác nhau. Nhận biết rằng mỗi trẻ cần được đào luyện cách cá biệt, cha mẹ có thể điều chỉnh các giai đoạn của việc giáo dục tình yêu cho phù hợp với những nhu cầu riêng của từng người con.

1. Lứa tuổi của sự ngây thơ trong trắng

78. Từ khoảng năm tuổi cho đến tuổi dậy thì – thời điểm bắt đầu xuất hiện những biến đổi đầu tiên nơi thân thể của thiếu niên nam và nữ (hệ quả rõ rệt của việc gia tăng sản xuất các nội tiết tố sinh dục) – người ta nói rằng trẻ đang ở trong giai đoạn mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là «lứa tuổi của sự trong trắng»[106]. Giai đoạn thanh thản và bình an này không bao giờ được phép bị xáo trộn bởi những thông tin về giới tính không cần thiết. Trong những năm này, trước khi xuất hiện rõ rệt sự phát triển thể lý về tính dục, điều bình thường là trẻ hướng mối quan tâm đến các khía cạnh khác của cuộc sống. Tính dục bản năng thô sơ nơi trẻ nhỏ đã biến mất. Các bé trai và bé gái ở lứa tuổi này không đặc biệt quan tâm đến các vấn đề tính dục, và thường thích kết bạn với những trẻ cùng giới.

Để không làm gián đoạn giai đoạn tự nhiên quan trọng cho sự lớn lên này, cha mẹ sẽ nhận ra rằng việc huấn luyện thận trọng về tình yêu gắn liền với đức khiết tịnh trong thời kỳ này phải được thực hiện một cách gián tiếp, như sự chuẩn bị cho tuổi dậy thì, khi mà việc truyền đạt trực tiếp sẽ trở nên cần thiết.

79. Trong giai đoạn phát triển này, trẻ thường cảm thấy thoải mái với thân thể và các chức năng của nó. Trẻ chấp nhận sự cần thiết của đức nết na trong cách ăn mặc và trong cách ứng xử. Dù đã ý thức về sự khác biệt thể lý giữa hai giới, trẻ đang lớn nhìn chung vẫn ít quan tâm đến các chức năng sinh dục. Việc khám phá những điều kỳ diệu của công trình sáng tạo – vốn đi liền với giai đoạn này – cùng với những trải nghiệm tương tự trong gia đình và ở trường học, cũng cần được định hướng để gắn kết với các giai đoạn giáo lý và với việc chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, vốn diễn ra trong lòng cộng đoàn Giáo Hội.

80. Tuy nhiên, giai đoạn thơ ấu này không phải là không mang ý nghĩa riêng về mặt phát triển tâm lý–tính dục. Bé trai hay bé gái đang lớn lên học hỏi từ gương mẫu của người lớn và từ kinh nghiệm gia đình về những gì biểu lộ là một người nữ hoặc một người nam. Dĩ nhiên, không nên làm nản lòng những biểu hiện dịu dàng tự nhiên và sự nhạy cảm nơi các bé trai; cũng vậy, không nên loại trừ những hoạt động thể lý mạnh mẽ nơi các bé gái. Mặt khác, trong một số xã hội phải chịu những áp lực về ý thức hệ, cha mẹ cũng nên hết sức tránh sự phản kháng thái quá đối với những gì đã được xác định như có một «vai trò cứng nhắc».

Trong một môi trường gia đình lành mạnh, không được phép phớt lờ hay giảm thiểu những khác biệt thực sự giữa hai giới. Trẻ em sẽ học được rằng chính cách tự nhiên, những khác biệt này tương ứng với một sự đa dạng nào đó trong những vai trò thông thường của người nam và người nữ trong gia đình cũng như trong các công việc nội trợ.

81. Trong suốt giai đoạn này, các bé gái thường phát triển mối quan tâm mang tính mẫu tử đối với trẻ nhỏ, đối với thiên chức làm mẹ và với việc chăm sóc gia đình. Luôn lấy mẫu tính của Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh làm gương, các em cần được khích lệ để làm nổi bật và trân trọng nữ tính của mình.

82. Trong giai đoạn này, bé trai thường ở trong một tiến trình phát triển tương đối thanh thản. Đây thường là thời điểm thuận lợi nhất để thiết lập một mối tương quan tốt đẹp với người cha. Lúc này, bé cần được học biết rằng nam tính của mình, dù là một hồng ân Thiên Chúa ban, không phải là dấu hiệu của sự vượt trội hơn phụ nữ, nhưng là một lời mời gọi của Thiên Chúa để đảm nhận những vai trò và trách nhiệm nhất định. Bé trai cũng cần được hướng dẫn để tránh trở nên quá hung hăng hoặc quá bận tâm đến sức mạnh thể lý như thể đó là bằng chứng cho nam tính của mình.

83. Tuy nhiên, trong bối cảnh truyền đạt thông tin về luân lý và giới tính, nhiều vấn đề có thể nảy sinh trong giai đoạn thơ ấu. Ngày nay, tại một số xã hội, có những kế hoạch và nỗ lực nhằm áp đặt việc cung cấp thông tin giới tính sớm cho trẻ em.

Trong giai đoạn phát triển này, trẻ chưa có khả năng hiểu trọn vẹn giá trị của chiều kích tình cảm trong tính dục. Các em không thể nắm bắt và kiểm soát hình ảnh giới tính trong một khung cảnh phù hợp với các nguyên tắc luân lý, và do đó cũng chưa thể tiếp nhận một thông tin giới tính sớm cách có trách nhiệm. Loại thông tin này thường làm tổn hại đến sự phát triển cảm xúc và nhân cách của trẻ, đồng thời phá vỡ sự thanh thản tự nhiên vốn đặc trưng cho thời kỳ này trong cuộc sống.

Cha mẹ cần loại trừ, với lòng tốt nhưng kiên quyết, mọi nỗ lực xâm phạm đến sự trong trắng của con cái, vì những nỗ lực đó gây tổn hại cho sự phát triển thiêng liêng, luân lý và cảm xúc của các nhân vị đang lớn lên, vốn có quyền được bảo vệ sự trong trắng ấy.

84. Một vấn đề khác nảy sinh khi trẻ em sớm nhận được thông tin giới tính từ các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc từ bạn bè đồng trang lứa đã bị sai lệch hoặc đã được giáo dục giới tính quá sớm. Trong hoàn cảnh này, cha mẹ buộc phải bắt đầu cung cấp một sự hướng dẫn giới tính có giới hạn và được cân nhắc kỹ lưỡng, thường là để sửa chữa những thông tin sai trái về mặt luân lý hoặc để điều chỉnh việc sử dụng ngôn ngữ dung tục.

85. Những vụ bạo lực tình dục đối với trẻ em không phải là hiếm gặp. Cha mẹ phải bảo vệ con cái của mình, trước hết bằng cách dạy chúng biết sống khiêm tốn và giữ sự kín đáo, cũng như thận trọng với người lạ; hơn nữa, bằng cách truyền đạt một sự chỉ dẫn giới tính thích hợp, nhưng không đưa ra những chi tiết hay đặc điểm có thể khiến trẻ bối rối hoặc sợ hãi.

86. Cũng như trong những năm đầu đời, suốt thời thơ ấu cha mẹ nên khuyến khích nơi con cái tinh thần hợp tác, đức vâng lời, lòng quảng đại và sự hy sinh, đồng thời nuôi dưỡng khả năng tự suy xét và thăng hoa nội tâm. Thật vậy, đặc điểm riêng của giai đoạn phát triển này là trẻ bị cuốn hút vào các hoạt động trí tuệ; việc vận dụng trí óc giúp chúng đạt được sức mạnh và khả năng kiểm soát thực tại chung quanh, và chẳng bao lâu nữa, cả những bản năng nảy sinh từ thân xác, sao cho chúng được chuyển hóa thành những hoạt động trí tuệ, hợp lý và thiết thực.

Một đứa trẻ vô kỷ luật hoặc bị nuông chiều dễ có nguy cơ thiếu trưởng thành và yếu kém về mặt luân lý trong tương lai, bởi vì thật khó duy trì đức khiết tịnh nếu một người đã hình thành những thói quen ích kỷ hoặc vô trật tự, và không biết cư xử với tha nhân bằng sự quan tâm và kính trọng. Cha mẹ cần trình bày những tiêu chuẩn khách quan về điều gì là đúng hay sai, qua đó xây dựng một nền tảng luân lý vững chắc cho suốt cuộc đời.

2. Lứa tuổi dậy thì

87. Lứa tuổi dậy thì, đánh dấu giai đoạn khởi đầu của tuổi thanh thiếu niên, là lúc cha mẹ được mời gọi đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục Kitô giáo cho con cái. Đây là thời khắc khám phá chính mình và «thế giới nội tâm; là thời của những dự định quảng đại, của cảm xúc yêu đương bừng nở, của những xung lực sinh học nơi bản năng tính dục và khát vọng được gần gũi với người khác; là thời của niềm vui mãnh liệt gắn liền với sự khám phá đầy say mê về cuộc sống. Tuy nhiên, đây cũng thường là lứa tuổi của những chất vấn sâu xa, của những tìm kiếm khắc khoải và đôi khi thất vọng; của thái độ hoài nghi đối với tha nhân dẫn đến sự thu mình nguy hại; và cũng là lứa tuổi có thể gắn liền với những thất bại hay cay đắng đầu đời»[107].

88. Cha mẹ cần đặc biệt lưu tâm đến sự phát triển của con cái và những biến đổi thể lý, tâm lý của chúng, vốn có ảnh hưởng quyết định đến sự trưởng thành nhân cách. Dù không biểu lộ sự lo lắng, sợ hãi hay bận tâm thái quá, cha mẹ cũng không được để cho sự hèn nhát hay tiện lợi ngăn cản việc can thiệp cần thiết. Đây là thời điểm quan trọng trong việc giáo dục về giá trị của đức khiết tịnh, điều này cũng sẽ được thể hiện trong cách thức truyền đạt thông tin về tính dục. Ở giai đoạn này, việc giáo dục còn liên quan đến khía cạnh giải phẫu của cơ quan sinh dục, nên cần được trình bày vừa trên bình diện các giá trị, vừa trong toàn bộ thực tại được hiểu cách toàn diện. Điều này cũng bao hàm sự hiểu biết về bối cảnh liên quan đến việc sinh sản, hôn nhân và gia đình – một bối cảnh phải được lưu tâm trong một công trình giáo dục giới tính đích thực[108].

89. Dựa trên những biến đổi mà các bé gái và bé trai cảm nhận nơi thân thể mình, cha mẹ có trách nhiệm đưa ra những giải thích chi tiết hơn về tính dục, mỗi khi – trong một mối tương quan đầy tin tưởng và thân tình – các bé gái tâm sự với mẹ và các bé trai với cha. Mối tương quan tin tưởng và thân tình này cần được xây dựng ngay từ những năm đầu đời.

90. Một nhiệm vụ quan trọng của cha mẹ là đồng hành với sự phát triển sinh lý tuần tự của các bé gái, giúp các em vui vẻ đón nhận sự phát triển nữ tính về mặt thể lý, tâm lý và tâm linh[109]. Vì thế, thông thường cũng có thể nói đến các chu kỳ sinh sản (cicli di fertilità) và ý nghĩa của chúng; tuy nhiên, chưa cần thiết phải đưa ra những giải thích chi tiết về sự kết hợp tính dục, trừ khi điều đó được yêu cầu một cách rõ ràng.

91. Điều cũng rất quan trọng là giúp các thiếu niên nam hiểu các giai đoạn phát triển thể lý và sinh lý của cơ quan sinh dục, trước khi các em phải tìm những thông tin này nơi bạn bè cùng chơi hoặc nơi những người thiếu thiện chí. Việc trình bày các thực tại sinh lý của tuổi dậy thì nam giới cần được thực hiện trong bầu khí thanh thản, tích cực và kín đáo, trong viễn tượng hướng đến hôn nhân, gia đình và vai trò làm cha. Vì thế, việc hướng dẫn cho cả thiếu niên nữ và thiếu niên nam cũng cần bao gồm một thông tin chi tiết và đầy đủ về những đặc điểm thể lý và tâm lý của giới tính đối lập – điều vốn khơi dậy sự tò mò mạnh mẽ nhất.

Trong lãnh vực này, sự hỗ trợ thông tin từ bác sĩ có lương tâm và cả từ nhà tâm lý học có thể hữu ích cho cha mẹ, nhưng những thông tin ấy không được tách rời khỏi đức tin và công trình giáo dục của linh mục.

92. Qua một cuộc đối thoại đầy tin tưởng và cởi mở, cha mẹ không chỉ có thể hướng dẫn con gái mình đối diện với mọi bối rối trong tâm cảm, mà còn nâng đỡ giá trị của đức khiết tịnh Kitô giáo trong việc nhìn nhận phái tính khác. Việc giáo dục cho cả các thiếu niên nam và nữ cần nhắm tới việc làm nổi bật vẻ đẹp của thiên chức làm mẹ, thực tại kỳ diệu của việc truyền sinh, cũng như ý nghĩa sâu xa của đời sống khiết tịnh. Nhờ đó, các em sẽ được trợ giúp để chống lại não trạng hưởng thụ đang lan rộng, và đặc biệt, trong một thời kỳ quyết định như vậy, để ngăn ngừa «não trạng tránh thụ thai» (mentalità contraccettiva) – điều đáng tiếc là đang rất phổ biến và mà các thiếu nữ sẽ phải đối diện trong đời sống hôn nhân sau này.

93. Suốt tuổi dậy thì, sự phát triển tâm lý và tình cảm của con trai có thể khiến em dễ bị tổn thương bởi những tưởng tượng gợi dục và rơi vào cám dỗ muốn thử nghiệm tình dục. Cha mẹ cần ở gần con cái, sửa chữa khuynh hướng sử dụng tính dục theo lối hưởng thụ và duy vật. Vì thế, cha mẹ sẽ nhắc nhở các em về hồng ân Thiên Chúa, được lãnh nhận để cộng tác với Người trong việc «thực hiện trong dòng lịch sử lời chúc lành nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa, qua việc sinh sản lưu truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này sang người khác»; và như vậy, cha mẹ sẽ củng cố nơi các em ý thức rằng «tính chất phong nhiêu là hoa trái và là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, là chứng từ sống động của sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa đôi vợ chồng»[110]. Nhờ đó, con cái cũng sẽ học biết tôn trọng đúng mức đối với phụ nữ. Thật vậy, công việc chỉ dẫn và giáo dục của cha mẹ là điều cần thiết, không phải vì nếu không thì con cái sẽ không thể biết đến thực tại tính dục, nhưng để chúng nhận biết những thực tại ấy dưới ánh sáng đúng đắn.

94. Theo đường lối tích cực và thận trọng (positiva e prudente), cha mẹ sẽ thực hiện điều mà các Nghị Phụ của Công Đồng Vaticanô II đã yêu cầu: «Trước hết trong chính gia đình mình, thanh thiếu niên phải được giáo dục cách thích hợp và đúng lúc về phẩm giá của tình yêu vợ chồng, về chức năng và cách biểu lộ của tình yêu ấy; nhờ đó, được đào luyện trong sự quý trọng đức khiết tịnh, đến tuổi thích hợp, các em sẽ có thể bước từ một giai đoạn tìm hiểu đứng đắn đến đời sống hôn nhân»[111].

Thông tin tích cực về giới tính này sẽ luôn được đặt trong một chương trình giáo dục, nhằm tạo ra bối cảnh Kitô giáo, trong đó mọi thông tin về sự sống, hành vi tính dục, giải phẫu học và vệ sinh đều phải được trình bày. Do đó, chiều kích thiêng liêng và luân lý phải luôn chiếm ưu thế và có hai mục tiêu đặc biệt: trình bày các điều răn của Thiên Chúa như một con đường dẫn đến sự sống, và đào luyện một lương tâm ngay thẳng.

Chúa Giêsu đã trả lời cho người thanh niên hỏi Người phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời: «Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy tuân giữ các điều răn» (Mt 19,17); và sau khi liệt kê những điều liên quan đến việc yêu thương người lân cận, Chúa Giêsu đã tóm lại trong một công thức tích cực: «Ngươi hãy yêu người lân cận như chính mình» (Mt 19,19). Việc trình bày các điều răn như là hồng ân của Thiên Chúa (được viết bởi chính ngón tay Thiên Chúa, x. Xh 31,18) và là biểu hiện của Giao Ước với Người, được Chúa Giêsu xác nhận bằng chính gương sống của Người, là điều rất quan trọng, để người thiếu niên không tách rời các điều răn khỏi mối tương quan với một đời sống nội tâm phong phú và được giải thoát khỏi tính ích kỷ[112].

95. Như điểm khởi đầu, việc huấn luyện lương tâm đòi hỏi phải được soi sáng về chương trình tình yêu mà Thiên Chúa dành cho từng người, về giá trị tích cực và giải thoát của luật luân lý, cũng như về ý thức vừa về tính mỏng giòn do tội lỗi gây nên vừa về các phương thế ân sủng giúp củng cố con người trên hành trình tiến tới sự thiện hảo và ơn cứu độ.

Như Công Đồng Vaticanô II đã xác nhận: «Hiện diện trong thâm tâm của con người, lương tâm luân lý là trung tâm sâu kín nhất và là cung thánh của con người»[113], «ra lệnh cho họ, vào đúng lúc, phải làm điều lành và tránh điều dữ. Nó cũng phán đoán các chọn lựa cụ thể, tán thành những điều tốt lành, tố giác những điều xấu xa độc ác. Nó chứng nhận thẩm quyền của chân lý quy chiếu về Sự Thiện tối thượng, Ðấng mà con người cảm nhận được sức thu hút và đón nhận các mệnh lệnh của Người»[114].

Thật vậy, «lương tâm luân lý là một phán đoán của lý trí, nhờ đó, nhân vị con người nhận ra phẩm chất luân lý của một hành vi cụ thể mà mình sắp làm, đang làm hay đã làm»[115]. Vì thế, việc huấn luyện lương tâm đòi hỏi sự khai sáng về chân lý và chương trình của Thiên Chúa, chứ không được lẫn lộn với một thứ tình cảm chủ quan mơ hồ hay với ý kiến cá nhân.

96. Khi trả lời những câu hỏi của con cái, cha mẹ cần đưa ra những lý lẽ vững chắc về giá trị cao cả của đức khiết tịnh và chỉ ra sự yếu kém về mặt trí tuệ cũng như nhân bản của những lý thuyết cổ vũ lối sống phóng túng và hưởng thụ. Họ sẽ trả lời cách rõ ràng, không nhấn mạnh quá mức đến những vấn đề bệnh lý tình dục, cũng không để con cái có cảm tưởng sai lạc rằng tính dục là một thực tại đáng xấu hổ hay thô tục, bởi lẽ tính dục là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa: chính Người đã đặt nơi thân xác con người khả năng sinh sản, để nhờ đó con người được tham dự vào quyền năng sáng tạo của Người.

Hơn nữa, cả trong Thánh Kinh (x. Dc 1–8; Hs 2; Gr 3,1–3; Êd 23...) lẫn trong truyền thống thần bí Kitô giáo[116], tình yêu vợ chồng luôn luôn được coi là biểu tượng và hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

97. Vì trong suốt tuổi dậy thì, một thiếu niên nam hay nữ đều dễ bị tổn thương trước những tác động tình cảm (influenze emotive), cha mẹ có nhiệm vụ, qua đối thoại và lối sống của mình, giúp con cái chống lại những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, vốn có thể khiến chúng coi nhẹ việc huấn luyện Kitô giáo về tình yêu và đức khiết tịnh. Đôi khi, nhất là trong những xã hội bị chi phối mạnh bởi sức ép tiêu thụ, cha mẹ sẽ phải – một cách kín đáo, không quá gây chú ý – quan tâm đến các mối tương quan của con cái với những người khác giới. Mặc dù có thể được xã hội chấp nhận, nhưng vẫn có những thói quen trong lời ăn tiếng nói và cách ăn mặc vốn không phù hợp về mặt luân lý; những điều ấy là cách thức làm tầm thường hóa tính dục, biến nó thành một đối tượng tiêu dùng. Do đó, cha mẹ cần dạy cho con cái biết giá trị của đức nết na Kitô giáo, sự chừng mực trong cách ăn mặc, cũng như đức tự chủ cần thiết để không bị lệ thuộc vào thời trang – đó là dấu chỉ của một người nam hay nữ có nhân cách trưởng thành[117].

3. Tuổi thiếu niên trong chương trình sống

98. Trong tiến trình phát triển của một con người, tuổi thiếu niên là giai đoạn hoạch định chương trình sống cho bản thân, và vì thế là thời điểm khám phá ơn gọi riêng của mình. Ngày nay, giai đoạn này có xu hướng kéo dài hơn so với trước kia, do cả những lý do sinh lý lẫn những động lực văn hóa và xã hội. Cha mẹ Kitô hữu có bổn phận «giáo dục con cái bước vào đời, sao cho mỗi người có thể chu toàn sứ mạng của mình theo ơn gọi nhận được từ Thiên Chúa»[118]. Đây là một trách nhiệm vô cùng quan trọng, vốn là đỉnh cao trong sứ mạng làm cha mẹ. Nếu trách nhiệm ấy luôn mang tính thiết yếu, thì nó càng trở nên cốt yếu trong giai đoạn này của đời sống con cái: «Trong đời sống của mỗi tín hữu giáo dân, có những thời điểm đặc biệt ý nghĩa và mang tính quyết định để phân định tiếng gọi của Thiên Chúa… trong đó có thời điểm của tuổi thiếu niên và tuổi thanh xuân»[119].

99. Điều rất quan trọng là không để người trẻ phải đơn độc trong việc phân định ơn gọi cá nhân (la vocazione personale). Những lời khuyên của cha mẹ và sự nâng đỡ của một linh mục hay của những người được đào tạo thích đáng – trong các giáo xứ, các hiệp hội, các phong trào mới mẻ và đầy hoa trái trong Giáo Hội, v.v. – là những yếu tố có giá trị, thậm chí đôi khi mang tính quyết định, giúp người trẻ khám phá ý nghĩa ơn gọi của đời sống và những hình thức đa dạng của lời mời gọi phổ quát nên thánh. Thật vậy, lời mời gọi «hãy theo Ta (seguimi) của Đức Kitô có thể được lắng nghe qua nhiều nẻo đường khác nhau, nơi đó các môn đệ và chứng nhân của Đấng Cứu Thế bước theo Người»[120].

100. Trong nhiều thế kỷ, khái niệm ơn gọi thường chỉ được dành riêng cho hàng linh mục và đời sống tu trì. Công Đồng Vaticanô II, khi nhắc lại lời dạy của Chúa – «Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48) – đã làm mới lại lời mời gọi phổ quát nên thánh[121]. Không bao lâu sau đó, Đức Phaolô VI đã viết: «Lời mời gọi nên thánh mạnh mẽ này có thể được xem là yếu tố đặc trưng nhất trong toàn bộ giáo huấn của Công Đồng, và có thể nói là cùng đích của Công Đồng»[122]. Và Đức Gioan Phaolô II đã tái khẳng định: «Công Đồng Vaticanô II đã có những lời vô cùng sáng tỏ về ơn gọi phổ quát nên thánh. Có thể nói rằng chính ơn gọi này là chỉ thị nền tảng được ủy thác cho tất cả mọi người con trai và con gái của Giáo Hội, bởi một Công Đồng được triệu tập để canh tân đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng[123]. Chỉ thị này không phải chỉ là một lời khuyên luân lý đơn thuần, nhưng là một đòi hỏi không thể né tránh trong mầu nhiệm của Giáo Hội»[124].

Thiên Chúa kêu gọi mọi người nên thánh, và Ngài có chương trình rất riêng biệt cho từng người: mỗi người phải nhận biết, đón nhận và phát triển ơn gọi dành riêng cho mình (la vocazione personale). Lời của vị Tông Ðồ muôn dân được áp dụng cho mọi thành phần trong Giáo Hội – từ linh mục đến giáo dân, từ người sống đời hôn nhân đến người sống đời độc thân: «Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, là những người thánh thiện và được yêu thương» (Cl 3,12).

101. Vì thế, điều cần thiết là trong việc dạy giáo lý và huấn luyện – cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội – luôn phải hiện diện không chỉ là giáo huấn của Giáo Hội về giá trị tuyệt hảo của đời sống trinh khiết và độc thân[125], mà còn về ý nghĩa mang tính ơn gọi của đời sống hôn nhân, điều mà một Kitô hữu không bao giờ được coi chỉ như một cuộc phiêu lưu nhân loại: «Đây là một bí tích lớn lao trong Đức Kitô và trong Hội Thánh» – Thánh Phaolô nói vậy (Ep 5,32).

Cần trao cho giới trẻ một xác tín vững chắc về điều này, một xác tín có tầm vóc siêu việt cho thiện ích của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại, và điều đó «tùy thuộc phần lớn vào cha mẹ và vào đời sống gia đình mà họ xây dựng nơi chính ngôi nhà của mình»[126].

102. Cha mẹ phải luôn nỗ lực, qua chính đời sống của mình, để nêu gương và làm chứng tá (l’esempio e la testimonianza) về sự trung tín đối với Thiên Chúa và sự trung tín của người này với người kia trong giao ước hôn nhân. Nhưng gương sáng của họ có tầm quan trọng đặc biệt trong thời kỳ thiếu niên – giai đoạn mà người trẻ đang tìm kiếm những mẫu gương sống động và hấp dẫn trong cung cách sống (modelli vissuti e attraenti di condotta). Vì trong giai đoạn này, các vấn đề liên quan đến tính dục thường trở nên rõ rệt hơn, cha mẹ cũng cần giúp con cái biết yêu mến vẻ đẹp và sức mạnh của đức khiết tịnh, qua những lời khuyên bảo khôn ngoan và thận trọng, làm sáng tỏ giá trị vô giá của nhân đức ấy; và để sống nhân đức này, điều kiện cần thiết là đời sống cầu nguyện và việc lãnh nhận các bí tích một cách thường xuyên và sinh hoa kết quả, đặc biệt là bí tích hòa giải cá nhân. Hơn nữa, tùy theo nhu cầu, cha mẹ cũng phải có khả năng trao cho con cái một lời giải thích tích cực và bình thản về những nguyên tắc vững chắc của luân lý Kitô giáo, chẳng hạn như: tính bất khả phân ly của hôn nhân, mối liên hệ mật thiết giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái, cũng như tính vô luân của quan hệ tình dục trước hôn nhân, phá thai, ngừa thai và thủ dâm. Về những thực tại vô luân sau cùng này – vốn đi ngược lại ý nghĩa của việc tự hiến vợ chồng – cũng nên nhớ lại rằng: «Hai chiều kích của sự kết hợp vợ chồng – hiệp nhất và sinh sản – không thể bị tách rời một cách nhân tạo mà không làm tổn hại đến sự thật thâm sâu nhất của chính hành vi vợ chồng»[127]. Trong lãnh vực này, việc cha mẹ có một sự hiểu biết sâu sắc và suy tư về các văn kiện của Giáo Hội bàn đến các vấn đề ấy sẽ là một trợ giúp quý giá[128].

103. Một cách đặc biệt, tật thủ dâm (masturbazione) là một vô trật tự nghiêm trọng, tự bản chất là bất chính, và không thể được biện minh về phương diện luân lý, cho dù «sự ấu trĩ của tuổi thiếu niên – đôi khi có thể kéo dài cả sau giai đoạn này – sự mất quân bình tâm lý, hoặc thói quen đã hình thành, có thể ảnh hưởng đến hành vi, làm suy giảm tính cố ý trong hành động, và vì thế, xét về mặt chủ quan, không phải lúc nào cũng có tội trọng»[129]. Do đó, thanh thiếu niên cần được giúp đỡ để vượt qua những biểu hiện vô trật tự này – vốn thường là dấu chỉ của những xung đột nội tâm và của tuổi tác, và không hiếm khi phản ánh một cái nhìn ích kỷ về tính dục.

104. Một vấn đề đặc thù, có thể xuất hiện trong tiến trình trưởng thành và nhận diện giới tính, là vấn đề đồng tính luyến ái (omosessualità: tình dục đồng giới), vốn ngày càng lan rộng trong các nền văn hóa chịu ảnh hưởng của đô thị hóa. Hiện tượng này cần được trình bày với sự quân bình trong phán đoán, dưới ánh sáng các văn kiện của Giáo Hội[130]. Người trẻ cần được giúp đỡ để phân biệt giữa tình trạng bình thường và tình trạng bất thường, giữa lỗi phạm mang tính chủ quan và sự vô trật tự mang tính khách quan, tránh khơi dậy thái độ thù nghịch, đồng thời làm sáng tỏ định hướng cơ cấu và bổ sung của tính dục trong mối liên hệ với thực tại hôn nhân, việc sinh sản và đức khiết tịnh Kitô giáo. «Đồng tính luyến ái chỉ những mối quan hệ giữa những người nam hoặc nữ cảm thấy sự hấp dẫn tính dục, độc quyền hoặc vượt trội, đối với những người cùng giới. Hiện tượng này biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau trong suốt các thế kỷ và trong các nền văn hóa khác nhau. Nguồn gốc tâm lý của hiện tượng này phần lớn vẫn chưa được giải thích rõ»[131]. Cần phân biệt xu hướng – có thể là bẩm sinh – với các hành vi đồng tính luyến ái, vốn «tự bản chất là vô trật tự»[132] và đi ngược lại luật tự nhiên[133].

Nhiều trường hợp, đặc biệt khi hành vi đồng tính chưa trở thành một thói quen cố định, có thể được hỗ trợ hiệu quả nhờ liệu pháp thích hợp. Dù thế nào, những người đang sống trong tình trạng này phải được đón nhận với sự tôn trọng, phẩm giá và sự tế nhị, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử bất công. Về phần mình, khi cha mẹ nhận thấy nơi con cái – trong thời thơ ấu hoặc tuổi thiếu niên – có những xu hướng hoặc hành vi liên quan, họ nên tìm đến sự trợ giúp từ những chuyên gia có trình độ để có được sự hỗ trợ hợp lý.

Đối với phần lớn những người đồng tính luyến ái, tình trạng này là một thử thách. «Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, lòng thương xót và sự tế nhị. Cần tránh mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công đối với họ. Những người này được mời gọi để thực hiện ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và nếu họ là Kitô hữu, để kết hợp những khó khăn mà họ có thể gặp phải vì tình trạng của mình với hy tế thập giá của Chúa»[134]. «Những người đồng tính luyến ái được mời gọi để sống đức khiết tịnh»[135].

105. Nhận thức về ý nghĩa tích cực của tính dục – vốn liên hệ đến sự hài hòa và sự phát triển toàn diện của con người, cũng như đến ơn gọi của con người trong gia đình, xã hội và Giáo Hội – luôn luôn là một định hướng giáo dục cần được đề xuất xuyên suốt các giai đoạn phát triển của tuổi thiếu niên. Không bao giờ được quên rằng sự vô trật tự trong việc sử dụng tính dục có xu hướng dần dần phá hủy khả năng yêu thương của con người (la capacità di amare della persona), khi biến khoái lạc thành mục tiêu thay vì là sự tự hiến chân thành, và khi hạ thấp tha nhân thành đối tượng để thỏa mãn bản thân. Như thế, nó vừa làm suy yếu ý nghĩa của tình yêu đích thực giữa người nam và người nữ – vốn luôn mở ngỏ cho sự sống – vừa làm xói mòn chính nền tảng gia đình, và tiếp đó dẫn đến sự khinh khi sự sống con người có thể được hình thành, lúc ấy sự sống bị coi như một sự dữ, đe dọa khoái lạc cá nhân trong một số hoàn cảnh[136]. Thật vậy, «việc tầm thường hóa tính dục là một trong những yếu tố chính dẫn đến thái độ khinh khi sự sống mới nảy sinh: chỉ có tình yêu chân thật mới biết bảo vệ sự sống»[137].

106. Cũng cần ghi nhớ rằng trong các xã hội công nghiệp hóa, thanh thiếu niên thường bị tác động sâu sắc trong nội tâm và đôi khi cảm thấy bối rối – không chỉ vì những vấn đề liên quan đến việc xác định căn tính bản thân (identificazione di sé), khám phá chương trình sống cho chính mình, hay những khó khăn trong việc hội nhập tính dục vào một nhân cách trưởng thành và có định hướng đúng đắn – mà còn vì những vấn đề liên quan đến việc chấp nhận chính mình và thân xác của mình. Hiện nay xuất hiện nhiều phòng khám và nhiều trung tâm chuyên dụng cho thanh thiếu niên thường mang đặc tính với ý hướng chỉ tìm kiếm khoái lạc. Một nền văn hóa lành mạnh về thân xác – giúp con người biết đón nhận chính mình như một hồng ân và như một sự nhập thể của tinh thần được mời gọi mở ra với Thiên Chúa và với xã hội – cần được đồng hành cùng với việc huấn luyện trong giai đoạn này, vốn rất mang tính xây dựng nhưng cũng không thiếu rủi ro.

Trước những lời mời gọi mang tính khoái lạc mà xã hội thịnh vượng thường đưa ra, điều hết sức quan trọng là giới thiệu cho giới trẻ những lý tưởng về sự liên đới nhân loại và Kitô giáo, cùng với những hình thức dấn thân cụ thể trong các hội đoàn, phong trào của Giáo Hội, cũng như trong các hoạt động tình nguyện Công giáo và truyền giáo.

107. Trong giai đoạn này, tình bạn (amicizie) có tầm quan trọng đặc biệt. Tùy theo điều kiện và phong tục xã hội nơi các em sinh sống, tuổi thiếu niên là thời kỳ mà người trẻ có được sự tự lập lớn hơn trong các mối tương quan với tha nhân và trong giờ giấc sinh hoạt gia đình. Dù không tước đi sự tự lập chính đáng của con cái, cha mẹ cần biết nói “không” khi cần thiết[138], đồng thời vun trồng nơi các em khả năng biết thưởng thức và yêu mến những gì là đẹp (bello: mỹ)cao quý (nobile: thiện) và chân thật (vero: chân). Cha mẹ cũng cần nhạy cảm với lòng tự trọng của thanh thiếu niên, vốn có thể đang trải qua một giai đoạn bối rối và thiếu sáng tỏ về ý nghĩa của phẩm giá cá nhân và những đòi hỏi kèm theo.

108. Nhờ những lời khuyên nhủ phát xuất từ tình yêu và lòng kiên nhẫn, cha mẹ sẽ giúp người trẻ thoát khỏi tình trạng tự khép kín thái quá (eccessivo rinchiudersi in se stessi). Khi cần thiết, họ sẽ dạy con cái biết đi ngược lại những tập quán xã hội vốn có xu hướng bóp nghẹt tình yêu đích thực và làm lu mờ sự trân quý đối với các thực tại tâm linh. Như lời Thánh Kinh nhắc nhở: «Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức! Kẻ thù của anh em là ma quỷ, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế. Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô. Sau khi anh em chịu khổ ít lâu, chính Người sẽ làm cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường» (1 Pr 5,8–10).

4. Hướng tới lứa tuổi trưởng thành

109. Tài liệu này không có ý định bàn về việc chuẩn bị gần và trực tiếp cho hôn nhân – một đòi hỏi của việc huấn luyện Kitô giáo, cách riêng được nhấn mạnh bởi nhu cầu thời đại và bởi Giáo Hội[139]. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng sứ mạng của cha mẹ không chấm dứt khi con cái đạt đến tuổi trưởng thành; hơn nữa, tuổi trưởng thành này còn thay đổi tùy theo nền văn hóa và pháp chế khác nhau. Những thời điểm đặc biệt và có ý nghĩa đối với người trẻ cũng là khi họ bước vào môi trường lao động hoặc nền giáo dục đại học, lúc họ bắt đầu tiếp xúc – đôi khi một cách thô bạo, nhưng cũng có thể trở thành hữu ích – với những kiểu mẫu ứng xử khác nhau và với những cơ hội vốn là một thách đố thực sự cho cá nhân.

110. Bằng cách duy trì một cuộc đối thoại tin tưởng, có khả năng khơi dậy tinh thần trách nhiệm trong khi vẫn tôn trọng quyền tự chủ chính đáng và cần thiết, cha mẹ sẽ luôn là điểm tham chiếu cho con cái – vừa qua lời khuyên bảo, vừa qua gương sống – để tiến trình hội nhập vào xã hội rộng lớn giúp chúng đạt được một nhân cách trưởng thành và thống nhất, cả về nội tâm lẫn xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm để con cái không cắt đứt, mà trái lại ngày càng củng cố mối liên hệ đức tin với Giáo Hội và đời sống Giáo Hội; biết cách chọn lựa những người thầy về tư tưởng và nhân cách cho tương lai; và có khả năng dấn thân trong các lĩnh vực văn hóa và xã hội với tư cách Kitô hữu, không sợ tuyên xưng đức tin và không đánh mất ý nghĩa cũng như hành trình tìm kiếm ơn gọi riêng của mình.

Trong giai đoạn dẫn đến việc đính hôn (fidanzamento) và chọn lựa một tình cảm ưu ái đặc biệt – có thể dẫn tới việc lập gia đình – vai trò của cha mẹ không nên chỉ giới hạn trong những cấm đoán đơn thuần, càng không phải là sự áp đặt trong việc chọn lựa hôn phu hay hôn thê. Trái lại, cha mẹ có bổn phận giúp con cái xác định những điều kiện cần thiết để có thể xây dựng một mối liên kết nghiêm túc, chân thành và đầy triển vọng, đồng thời nâng đỡ chúng trong hành trình làm chứng nhân Kitô giáo cách rõ ràng và nhất quán trong tương quan với người khác phái.

111. Cha mẹ cần tránh dung túng não trạng phổ biến cho rằng con gái thì phải nhận hết mọi lời khuyên răn về nhân đức và giá trị của sự khiết tịnh, còn con trai thì không bị đòi hỏi điều ấy, như thể đối với họ mọi sự đều được phép.

Đối với lương tâm Kitô giáo và đối với cái nhìn về hôn nhân và gia đình – trong mọi ơn gọi – vẫn luôn có giá trị lời khuyên của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Philípphê: «Điều gì là chân thật, cao quý, chính trực, tinh tuyền, đáng mến, đáng khen; điều gì là nhân đức và đáng ca ngợi, thì anh em hãy để tâm tới” (Pl 4,8).

VII. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

112. Trong khuôn khổ giáo dục các nhân đức, cha mẹ có trách nhiệm trở thành người khởi xướng một nền giáo dục đích thực về tình yêu cho con cái mình. Việc sinh con ra lần thứ nhất (generazione primaria) một sự sống mới trong hành vi truyền sinh đòi hỏi, theo bản chất của nó, phải có một việc sinh con ra lần thứ hai (generazione secondaria), nghĩa là sự đồng hành của cha mẹ trong việc giúp con cái phát triển nhân cách.

Vì thế, những đoạn tiếp theo sẽ tóm lược một cách khái quát những điều đã được trình bày và đặt chúng trên bình diện thực hành[140].

Những khuyến nghị cho cha mẹ và các nhà giáo dục

113. Cha mẹ cần ý thức rõ vai trò giáo dục của mình, đồng thời bảo vệ và thực thi quyền lợi cũng như nghĩa vụ căn bản này[141]. Do đó, bất kỳ sự can thiệp giáo dục nào – kể cả việc giáo dục về tình yêu – do những người ngoài gia đình thực hiện, đều phải được sự chấp thuận của cha mẹ; và những can thiệp đó không được coi như sự thay thế, nhưng phải như một sự trợ giúp cho trách nhiệm của họ. Thật vậy, «việc giáo dục giới tính là quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của cha mẹ, và phải luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn ân cần của họ, cả trong gia đình lẫn tại các trung tâm giáo dục do họ lựa chọn và giám sát»[142]. Tuy nhiên, cha mẹ thường quá đơn độc, thiếu sự bảo vệ và thậm chí còn bị đổ lỗi. Họ không chỉ cần được cảm thông, mà còn cần sự hỗ trợ và giúp đỡ từ các nhóm, hội đoàn và các cơ cấu xã hội khác.

1. Những lời khuyên dành cho cha mẹ

114. 1. Cha mẹ được khuyến khích liên kết với các cha mẹ khác – không chỉ để bảo vệ, duy trì hoặc bổ túc vai trò của mình như là những nhà giáo dục đầu tiên của con cái, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục về tình yêu[143] – mà còn để chống lại những hình thức giáo dục giới tính lệch lạc, đồng thời bảo đảm cho con cái được giáo dục theo các nguyên tắc Kitô giáo và trong cách thức phù hợp với sự phát triển nhân cách của chúng.

115. 2. Trong trường hợp cha mẹ được người khác hỗ trợ trong việc giáo dục con cái về tình yêu, cha mẹ cần yêu cầu được thông tin chính xác về nội dung và phương pháp của chương trình giáo dục bổ sung đó[144]. Không ai có quyền buộc trẻ em hay thanh thiếu niên phải giữ kín nội dung hay phương pháp giảng dạy được thực hiện bên ngoài gia đình.

116. 3. Dù ý thức rằng cha mẹ thường gặp khó khăn – và nhiều khi hoàn toàn không thể – tham gia đầy đủ vào mọi hoạt động giảng dạy bổ sung được tổ chức bên ngoài gia đình; tuy nhiên, họ vẫn có quyền chính đáng được biết rõ về hình thức cấu trúc và nội dung của chương trình. Trong bất cứ trường hợp nào, quyền hiện diện của cha mẹ trong lớp học suốt quá trình giảng dạy cũng không thể bị phủ nhận[145].

117. 4. Cha mẹ được khuyến cáo hãy lưu tâm theo dõi cẩn trọng mọi hình thức giáo dục giới tính được trao ban cho con cái bên ngoài gia đình, và rút chúng ra nếu hình thức ấy không phù hợp với các nguyên tắc của mình[146]. Tuy nhiên, quyết định này của cha mẹ không được trở thành nguyên cớ gây ra sự phân biệt đối xử đối với con cái[147]. Mặt khác, khi rút con khỏi việc giảng dạy ấy, cha mẹ có bổn phận cung cấp cho chúng một sự đào luyện thích đáng, phù hợp với giai đoạn phát triển của từng trẻ em hoặc thanh thiếu niên.

2. Những khuyến nghị dành cho tất cả các nhà giáo dục

118. 1. Vì mỗi trẻ em hay thanh thiếu niên phải có khả năng sống tính dục của mình phù hợp với các nguyên tắc Kitô giáo – nghĩa là thực hành nhân đức khiết tịnh – nên không một nhà giáo dục nào, kể cả cha mẹ, được phép xâm phạm đến quyền này (x. Mt 18,4–7)[148].

119. 2. Cần tôn trọng quyền của trẻ em và thanh thiếu niên được cha mẹ hướng dẫn thích hợp về các vấn đề luân lý và tính dục, theo cách nâng đỡ ước muốn sống khiết tịnh và đào luyện chúng trong nhân đức ấy[149]. Quyền này được quy định bởi giai đoạn phát triển của trẻ, bởi khả năng kết hợp chân lý luân lý với thông tin về tính dục, và bởi sự tôn trọng đối với sự trong trắng và bình an nội tâm của chúng.

120. 3. Cần tôn trọng quyền của trẻ em và thanh thiếu niên được rút khỏi bất kỳ hình thức giáo dục giới tính nào được giảng dạy bên ngoài gia đình[150]Vì quyết định này, các em cũng như những thành viên khác trong gia đình không bao giờ được phép bị thiệt thòi hay phân biệt đối xử.

Bốn nguyên tắc thực hành và những chuẩn mực đặc thù

121. Dưới ánh sáng của những khuyến nghị này, việc giáo dục về tình yêu có thể được hiện thực hóa trong bốn nguyên tắc thực hành.

122. 1. Tính dục con người là một mầu nhiệm thánh thiêng, cần được trình bày theo giáo huấn tín lý và luân lý của Giáo Hội, luôn lưu ý đến những hệ quả của tội nguyên tổ.

Được soi dẫn bởi lòng kính sợ và cái nhìn hiện thực Kitô giáo, nguyên tắc tín lý này phải hướng dẫn mọi giai đoạn của việc giáo dục về tình yêu. Trong thời đại mà tính dục con người bị tước bỏ chiều kích mầu nhiệm, cha mẹ cần thận trọng – cả trong việc giảng dạy của chính mình lẫn trong sự trợ giúp từ người khác – để tránh việc tầm thường hóa tính dục. Đặc biệt, cần duy trì sự tôn trọng sâu xa đối với sự khác biệt giữa nam và nữ, vốn phản chiếu tình yêu và sự phong nhiêu của chính Thiên Chúa.

123. Đồng thời, khi giảng dạy tín lý và luân lý Công giáo về tính dục, cần ghi nhớ những hệ quả lâu dài của tội nguyên tổ (gli effetti durevoli del peccato originale): sự yếu đuối của con người và nhu cầu cần đến ân sủng Thiên Chúa để vượt qua cám dỗ và tránh xa tội lỗi. Trong lãnh vực này, cần huấn luyện lương tâm (formare la coscienza) mỗi người cách rõ ràng, chính xác và hòa hợp với các giá trị thiêng liêng. Tuy nhiên, luân lý Công giáo không bao giờ chỉ dừng lại ở việc dạy tránh tội; nó còn là tiến trình trưởng thành trong các nhân đức Kitô giáo và phát triển khả năng tự hiến trong ơn gọi đời sống riêng của mỗi người.

124. 2. Chỉ nên trình bày cho trẻ em và thanh thiếu niên những thông tin tương xứng với từng giai đoạn phát triển cá nhân của các em.

Nguyên tắc đúng thời điểm này đã được nêu ra khi nghiên cứu các giai đoạn phát triển khác nhau của trẻ em và người trẻ. Cha mẹ và tất cả những ai trợ giúp cần phải nhạy bén: a) với các giai đoạn phát triển khác nhau, đặc biệt là «lứa tuổi trong trắng» và tuổi dậy thì; b) với cách mà mỗi trẻ em hay thanh thiếu niên trải nghiệm những giai đoạn khác nhau của cuộc đời; c) với những vấn đề đặc thù gắn liền với các giai đoạn ấy.

125. Dưới ánh sáng của nguyên tắc này, cũng có thể nêu bật tầm quan trọng của tính đúng thời điểm trong các vấn đề chuyên biệt:

a) Ở giai đoạn cuối tuổi thiếu niên, người trẻ cần được giới thiệu trước tiên về các dấu hiệu sinh sản, rồi đến phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên (regolazione naturale della fertilità) – nhưng chỉ trong bối cảnh giáo dục về tình yêu, về lòng trung tín trong hôn nhân, về kế hoạch của Thiên Chúa đối với việc sinh sản và việc tôn trọng sự sống con người.

b) Vấn đề đồng tính luyến ái (L’omosessualità ) không nên được bàn đến trước tuổi thiếu niên, trừ khi phát sinh một vấn đề nghiêm trọng đặc thù trong một hoàn cảnh cụ thể[151]. Chủ đề này chỉ nên được trình bày theo các khía cạnh liên quan đến đức khiết tịnh, sức khỏe và «chân lý về tính dục con người trong tương quan với gia đình, như Giáo Hội dạy»[152].

c) Các lệch lạc tính dục – vốn tương đối hiếm – không nên được bàn luận công khai, mà chỉ được giải quyết qua những lời khuyên mang tính cá nhân, như là sự đáp ứng của cha mẹ trước những vấn đề thực sự.

126. 3. Không một tài liệu nào mang tính gợi dục được phép trình bày cho trẻ em hay thanh thiếu niên ở bất kỳ độ tuổi nào, dù là cá nhân hay theo nhóm.

Nguyên tắc về sự đoan trang này nhằm bảo vệ nhân đức khiết tịnh Kitô giáo. Vì thế, khi truyền đạt thông tin về tính dục trong bối cảnh giáo dục tình yêu, việc giảng dạy phải luôn «tích cực và thận trọng»[153] cũng như «trong sáng và tinh tế»[154]. Bốn từ ngữ này – được Giáo Hội Công giáo sử dụng – loại trừ mọi hình thức nội dung không thể chấp nhận trong giáo dục tính dục[155].

Ngoài ra, những hình ảnh hay mô tả hiện thực về việc sinh nở (parto) – chẳng hạn trong phim – dù không mang tính gợi dục, cũng phải được trình bày một cách tiệm tiến, để không gây sợ hãi hoặc tạo nên những thái độ tiêu cực đối với việc sinh sản nơi các thiếu nữ và phụ nữ trẻ.

127. 4. Không bao giờ một trẻ em nào được mời gọi, càng không được ép buộc, hành động theo bất kỳ cách nào có thể xúc phạm đến sự đoan trang khách quan hoặc, trên bình diện chủ quan, làm tổn thương sự tinh tế hay cảm thức riêng tư của chính em.

Nguyên tắc tôn trọng trẻ em này loại trừ mọi hình thức liên hệ không thích hợp đối với trẻ em và thanh thiếu niên. Trong số những hình thức lạm dụng giáo dục tính dục, có thể kể đến: a) mọi hình thức trình diễn «được kịch hóa», kịch câm hoặc «nhập vai» nhằm mô tả các vấn đề liên quan đến cơ quan sinh dục hoặc mang tính khiêu dâm; b) việc tạo ra các hình ảnh, bảng biểu, mô hình… về cùng loại nội dung; c) việc yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân về các vấn đề tính dục[156] hoặc tiết lộ thông tin gia đình; d) các bài khảo sát, vấn đáp hay kiểm tra – bằng miệng hoặc bằng văn bản – liên quan đến các vấn đề sinh dục hoặc khiêu dâm.

Các phương pháp cụ thể

128. Những nguyên tắc và quy định này có thể đồng hành cùng cha mẹ, cũng như tất cả những ai hỗ trợ họ, khi họ sử dụng những phương pháp khác nhau được xem là phù hợp dựa trên kinh nghiệm của cha mẹ và các chuyên gia. Tiếp theo đây sẽ trình bày các phương pháp được khuyến nghị, đồng thời chỉ ra những phương pháp chính cần tránh, cùng với các ý thức hệ thúc đẩy hoặc gợi hứng cho chúng.

a) Những phương pháp được khuyến nghị

129. Phương pháp thông thường và nền tảng, vốn đã được đề xuất trong tài liệu này, là đối thoại cá nhân giữa cha mẹ và con cái, tức là sự giáo dục cá nhân trong môi trường gia đình. Thực vậy, không gì có thể thay thế cuộc đối thoại đầy tin tưởng và cởi mở với con cái, một cuộc đối thoại tôn trọng không chỉ các giai đoạn phát triển, mà còn cả chính nhân vị của người trẻ như một cá thể. Tuy nhiên, khi cha mẹ tìm kiếm sự trợ giúp từ người khác, có nhiều phương pháp hữu ích khác có thể được khuyến nghị, dưới ánh sáng kinh nghiệm của cha mẹ và trong sự phù hợp với sự khôn ngoan Kitô giáo.

130. 1. Với tư cách là đôi vợ chồng, hoặc với tư cách cá nhân, cha mẹ có thể gặp gỡ với những người đã được chuẩn bị trong lãnh vực giáo dục về tình yêu, để hưởng ích lợi từ kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ. Ngoài ra, những người này còn có thể giải thích và cung cấp cho họ sách cũng như những tài liệu khác đã được thẩm quyền Giáo Hội chuẩn nhận.

131. 2. Cha mẹ, vốn không phải lúc nào cũng được chuẩn bị sẵn sàng để đối diện với các vấn đề liên quan đến giáo dục về tình yêu, có thể cùng con cái tham dự những buổi gặp gỡ được hướng dẫn bởi những người có chuyên môn và đáng tin cậy, chẳng hạn như bác sĩ, linh mục hoặc nhà giáo dục. Trong một số trường hợp, để tạo điều kiện cho sự bày tỏ được tự do hơn, có thể thích hợp hơn khi tổ chức những buổi gặp gỡ chỉ dành riêng cho con gái hoặc chỉ dành riêng cho con trai.

132. 3. Trong một số hoàn cảnh nhất định, nếu có những vấn đề đòi hỏi khả năng chuyên môn đặc thù hoặc cần đến sự chăm sóc mục vụ trong những trường hợp đặc biệt, cha mẹ có thể ủy thác một phần việc giáo dục về tình yêu cho một người khác đáng tin cậy.

133. 4. Giáo lý về luân lý có thể được truyền đạt bởi những người khác đáng tin cậy, với sự lưu tâm đặc biệt đến đạo đức tính dục trong giai đoạn dậy thì và tuổi thiếu niên. Cha mẹ có bổn phận quan tâm đến giáo lý luân lý được giảng dạy cho con cái bên ngoài gia đình và sử dụng nó như một sự hỗ trợ cho công tác giáo dục của mình. Tuy nhiên, giáo lý này không được bao gồm các khía cạnh sâu kín hơn của việc hướng dẫn tính dục – về mặt sinh học hoặc cảm xúc – vì những điều đó thuộc về việc huấn luyện cá nhân trong gia đình[157].

134. 5. Việc đào tạo tôn giáo của chính cha mẹ, đặc biệt là sự chuẩn bị giáo lý vững vàng của người lớn về chân lý của tình yêu, xây dựng nền tảng cho một đức tin trưởng thành, nhờ đó họ có thể hướng dẫn con cái trong việc huấn luyện giáo lý[158]. Giáo lý cho người lớn ấy không chỉ giúp đào sâu sự hiểu biết về cộng đồng sự sống và tình yêu của hôn nhân, mà còn giúp cha mẹ học cách hiệp thông và giao tiếp tốt hơn với con cái. Ngoài ra, trong tiến trình huấn luyện con cái về tình yêu, cha mẹ sẽ nhận thấy nhiều lợi ích nơi bổn phận này, bởi vì họ sẽ khám phá rằng tác vụ tình yêu ấy giúp họ duy trì «ý thức sống động về “hồng ân” mà họ liên tục nhận được từ con cái»[159]. Để cha mẹ có đủ khả năng thực hiện công tác giáo dục của mình, có thể khuyến khích tổ chức các khóa đào tạo đặc biệt với sự cộng tác của các chuyên gia.

b) Những phương pháp và ý thức hệ cần tránh

135. Ngày nay, cha mẹ có bổn phận lưu tâm đến những cách thức mà một nền giáo dục vô đạo đức có thể được truyền đạt cho con cái mình qua các phương pháp khác nhau, vốn được cổ vũ bởi những nhóm có lập trường và lợi ích đi ngược lại luân lý Kitô giáo[160]. Không thể liệt kê hết mọi phương pháp không thể chấp nhận; ở đây chỉ trình bày một số cách phổ biến nhất đang đe dọa quyền của cha mẹ và gây nguy hại cho đời sống luân lý của con cái họ.

136. Trước hết, cha mẹ cần kiên quyết từ chối hình thức giáo dục giới tính bị tục hóa và mang tính chống sinh sản (l’educazione sessuale secolarizzata ed antinatalista), vốn đặt Thiên Chúa ra bên lề cuộc sống và xem việc sinh ra một đứa trẻ như một mối đe dọa. Hình thức giáo dục này được phổ biến bởi các tổ chức lớn và các hiệp hội quốc tế cổ vũ phá thai, triệt sản và ngừa thai. Những tổ chức này tìm cách áp đặt một lối sống giả tạo, đi ngược lại với chân lý về tính dục con người. Hoạt động ở cấp quốc gia hoặc địa phương, chúng gieo rắc nơi trẻ em và thanh thiếu niên nỗi sợ hãi về «mối đe dọa của tình trạng quá tải dân số», nhằm cổ vũ một não trạng ngừa thai – tức là não trạng «chống lại sự sống». Chúng cũng truyền bá những khái niệm sai lạc về «sức khỏe sinh sản” và «quyền sinh sản và tình dục» của giới trẻ[161]. Ngoài ra, một số tổ chức chống sinh sản còn tài trợ cho những phòng khám vi phạm quyền của cha mẹ, cung cấp phá thai và ngừa thai cho giới trẻ, từ đó khuyến khích lối sống buông thả và làm gia tăng việc mang thai ngoài ý muốn nơi thanh thiếu niên. «Hướng về năm 2000, làm sao không nghĩ đến giới trẻ? Người ta đang đề xuất cho các em điều gì? Một xã hội của “những thứ đồ vật” (cose) chứ không phải của “những con người” (persone). Quyền được làm mọi sự một cách tự do ngay từ tuổi rất nhỏ, không bị giới hạn, nhưng được bảo đảm “an toàn” tối đa. Việc tự hiến vô vị lợi, làm chủ bản năng và tinh thần trách nhiệm nay bị coi như những khái niệm thuộc về một thời đại khác»[162].

137. Trước tuổi thiếu niên, tính chất trái luân lý của phá thai – dù được thực hiện bằng phẫu thuật hay bằng thuốc – có thể được giải thích một cách tiệm tiến, theo quan điểm luân lý Công giáo và lòng tôn kính sự sống con người[163].

Việc bàn luận về triệt sản (sterilizzazione) và ngừa thai (contraccezione: tránh thụ thai) không nên diễn ra trước tuổi thiếu niên (13 – 19 tuổi), và khi được đề cập, phải được triển khai hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội Công giáo[164]. Do đó, cần nhấn mạnh các giá trị luân lý, tinh thần và sức khỏe của những phương pháp điều hòa khả năng sinh sản tự nhiên, đồng thời chỉ ra những nguy cơ và các khía cạnh luân lý của những phương pháp nhân tạo. Đặc biệt, cần làm nổi bật sự khác biệt căn bản và sâu sắc giữa các phương pháp tự nhiên và nhân tạo – cả trong việc tôn trọng kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân, lẫn trong việc thực hiện «sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa vợ chồng»[165] và sự mở ngỏ đối với sự sống.

138. Trong một số xã hội hiện nay, có những hiệp hội chuyên nghiệp của các nhà giáo dục, chuyên viên tư vấn và nhà trị liệu tính dục đang hoạt động. Vì công việc của họ thường dựa trên những lý thuyết không lành mạnh, thiếu giá trị khoa học và khép kín trước một nền nhân học đích thực – vốn không nhìn nhận giá trị thật sự của đức khiết tịnh – cha mẹ cần hết sức thận trọng khi tìm hiểu về các hiệp hội này, bất kể họ có được công nhận chính thức ở mức độ nào. Đặc biệt, khi quan điểm của các hiệp hội ấy mâu thuẫn với giáo huấn của Giáo Hội, điều này bộc lộ rõ không chỉ trong hành động mà còn qua các ấn phẩm của họ, vốn được phổ biến rộng rãi tại nhiều quốc gia.

139. Một lạm dụng khác xảy ra khi người ta muốn truyền đạt giáo dục giới tính bằng cách chỉ dạy cho trẻ em – kể cả bằng hình ảnh minh họa – mọi chi tiết riêng tư của hành vi giao hợp. Ngày nay, điều này thường được thực hiện với lý do nhằm cung cấp một nền giáo dục về «tình dục an toàn», đặc biệt trong bối cảnh liên quan đến sự lây lan của bệnh AIDS. Trong hoàn cảnh này, cha mẹ cũng phải kiên quyết từ chối việc cổ vũ cái gọi là «tình dục an toàn» (safe sex) hoặc «tình dục an toàn hơn” (safer sex)– một chính sách nguy hiểm và vô luân, vốn dựa trên giả thuyết hão huyền rằng bao cao su có thể mang lại sự bảo vệ thích đáng chống lại AIDS. Cha mẹ cần nhấn mạnh rằng sự tiết dục ngoài hôn nhân và lòng chung thủy trong hôn nhân là nền giáo dục chân thật và an toàn duy nhất để phòng ngừa căn bệnh lây nhiễm này.

140. Một cách tiếp cận khác đang được sử dụng rộng rãi nhưng có thể gây hại là phương pháp gọi là «làm sáng tỏ các giá trị». Theo đó, giới trẻ được khuyến khích suy nghĩ, phân tích và tự quyết định về các vấn đề luân lý với mức độ «tự trị» (autonomia) tối đa, trong khi lại phớt lờ thực tại khách quan của luật luân lý nói chung, và bỏ qua việc huấn luyện lương tâm theo các giới răn luân lý đặc thù của Kitô giáo, vốn được Quyền giáo huấn của Giáo Hội xác nhận[166]. Phương pháp này gieo vào tâm trí người trẻ ý tưởng rằng luật luân lý là điều do chính họ tạo ra, như thể con người là nguồn gốc và chuẩn mực của luân lý.

Trái lại, phương pháp làm sáng tỏ các giá trị lại cản trở tự do và sự tự chủ đích thực của người trẻ trong một giai đoạn vốn thiếu ổn định cho sự phát triển của họ[167]. Trên thực tế, phương pháp này không chỉ cổ vũ ý kiến của đa số, mà còn đặt người trẻ trước những tình huống luân lý phức tạp, xa lạ với những chọn lựa luân lý thường ngày mà họ phải đối diện – nơi mà điều thiện hay điều ác có thể dễ dàng được nhận ra. Đây là một phương pháp không thể chấp nhận, vốn có xu hướng gắn chặt với thuyết tương đối luân lý, và do đó cổ vũ sự dửng dưng trước luật luân lý cũng như khuyến khích lối sống buông thả.

141. Cha mẹ cũng cần lưu tâm đến những cách thức mà giáo dục giới tính được lồng ghép vào trong nội dung của các môn học khác vốn hữu ích vì những mục tiêu khác (chẳng hạn như: sức khỏe và vệ sinh, phát triển cá nhân, đời sống gia đình, văn học thiếu nhi, nghiên cứu xã hội và văn hóa, v.v.). Trong những trường hợp như vậy, việc kiểm soát nội dung giáo dục giới tính trở nên khó khăn hơn. Phương pháp lồng ghép (metodo dell’inclusione) này đặc biệt được sử dụng bởi những người cổ vũ giáo dục giới tính theo quan điểm kiểm soát sinh sản, hoặc tại các quốc gia mà chính phủ không tôn trọng quyền của cha mẹ trong lĩnh vực này. Ngay cả giáo lý cũng sẽ bị bóp méo nếu mối liên hệ không thể tách rời giữa tôn giáo và luân lý bị lợi dụng như cái cớ để đưa vào chương trình giáo lý những thông tin về tính dục, sinh học và tình cảm – những điều lẽ ra cha mẹ phải truyền đạt cho con cái theo sự phân định khôn ngoan của họ ngay trong gia đình[168].

142. Tóm lại, như một định hướng tổng quát, cần ghi nhớ rằng mọi phương pháp khác nhau trong việc giáo dục giới tính phải được cha mẹ đánh giá dưới ánh sáng của các nguyên tắc và chuẩn mực luân lý của Giáo Hội, vốn diễn tả những giá trị nhân văn trong đời sống hằng ngày[169]. Cha mẹ cũng cần cân nhắc đến những tác động tiêu cực mà các phương pháp khác nhau có thể gây ra nơi nhân cách của trẻ em và thanh thiếu niên.

Hội nhập văn hoá và giáo dục về tình yêu

143. Một nền giáo dục đích thực về tình yêu phải lưu tâm đến bối cảnh văn hóa mà cha mẹ và con cái đang sống trong đó. Như là sự kết hợp giữa đức tin được tuyên xưng và đời sống cụ thể, hội nhập văn hóa là sự hài hòa giữa đức tin và văn hóa, nơi Chúa Kitô và Tin Mừng của Người giữ vị trí ưu tiên tuyệt đối so với mọi biểu hiện văn hóa. «Bởi vì đức tin Kitô giáo vượt trên tất cả mọi trật tự tự nhiên và văn hóa, một mặt, nó tương hợp với mọi nền văn hóa trong những gì phù hợp với lý trí ngay chính và thiện chí; mặt khác, ở mức độ nổi bật, chính đức tin là một yếu tố năng động thúc đẩy văn hóa. Nguyên tắc này soi sáng toàn bộ các mối tương quan giữa đức tin và văn hóa: ân sủng tôn trọng bản tính tự nhiên, chữa lành những vết thương do tội lỗi gây ra, củng cố và nâng cao bản tính ấy. Việc nâng bản tính lên đời sống thần linh là mục tiêu đặc thù của ân sủng, nhưng ân sủng không thể tự thực hiện nếu bản tính chưa được chữa lành và chưa được nâng lên đến trật tự siêu nhiên, để đạt tới sự viên mãn trong việc huấn luyện»[170]. Vì thế, không bao giờ có thể biện minh cho việc giáo dục giới tính một cách minh bạch và sớm sủa cho trẻ em nhân danh nền văn hóa tục hóa đang thịnh hành. Trái lại, cha mẹ có bổn phận giáo dục con cái mình biết nhận định và đối diện với sức mạnh của nền văn hóa ấy, để chúng luôn có thể bước đi trên con đường của Chúa Kitô.

144. Trong các nền văn hóa truyền thống, cha mẹ không được chấp nhận những thực hành trái ngược với luân lý Kitô giáo, chẳng hạn như các nghi lễ gắn liền với tuổi dậy thì, đôi khi bao hàm việc dẫn dắt giới trẻ bước vào các thực hành tính dục hoặc những hành vi xúc phạm đến sự chính trực và phẩm giá con người, như việc cắt bỏ bộ phận sinh dục của các bé gái. Do đó, việc thẩm định một tập tục địa phương có phù hợp với luân lý Kitô giáo hay không thuộc thẩm quyền của Giáo Hội. Tuy nhiên, những truyền thống về sự đoan trang và kín đáo trong vấn đề tính dục – vốn là đặc điểm của nhiều xã hội khác nhau – cần được tôn trọng ở mọi nơi. Đồng thời, quyền của giới trẻ được tiếp cận với thông tin thích hợp phải được bảo đảm. Hơn nữa, cần tôn trọng vai trò riêng biệt của gia đình trong nền văn hóa ấy[171], để không áp đặt bất kỳ mô hình giáo dục giới tính nào của phương Tây.

VIII. KẾT LUẬN

Sự hỗ trợ cho cha mẹ

145. Có nhiều cách khác nhau để giúp đỡ và hỗ trợ cha mẹ trong việc thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ căn bản là giáo dục con cái về tình yêu. Sự trợ giúp ấy không bao giờ có nghĩa là tước bỏ hay làm giảm đi quyền lợi và nghĩa vụ giáo dục của cha mẹ, bởi đó vẫn là quyền lợi và nghĩa vụ «chính yếu và đầu tiên», «không thể thay thế và không thể chuyển nhượng»[172]. Do đó, vai trò mà người khác có thể đảm nhận trong việc hỗ trợ cha mẹ luôn luôn phải là: (a) bổ trợ (sussidiario), vì vai trò giáo dục của cộng đoàn gia đình luôn là thích hợp hơn cả; và (b) phụ thuộc (subordinato), nghĩa là chịu sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của cha mẹ. Mọi người cần tuân theo trật tự đúng đắn trong việc cộng tác và phối hợp giữa cha mẹ với những ai có thể giúp họ chu toàn bổn phận. Rõ ràng, sự hỗ trợ từ bên ngoài phải chủ yếu dành cho cha mẹ, chứ không trực tiếp cho con cái của họ.

146. Những ai được mời gọi để giúp cha mẹ trong việc giáo dục con cái về tình yêu phải sẵn sàng và được chuẩn bị để giảng dạy phù hợp với toàn bộ giáo huấn luân lý đích thực của Giáo Hội Công Giáo. Họ phải là những người trưởng thành, có danh thơm tiếng tốt về luân lý, trung thành với bậc sống Kitô hữu của mình – dù đã kết hôn hay sống độc thân, là giáo dân, tu sĩ hay linh mục. Họ cần được chuẩn bị không chỉ về các chi tiết liên quan đến thông tin luân lý và giới tính, mà còn phải nhạy bén đối với quyền lợi và vai trò của cha mẹ và gia đình, cũng như đối với nhu cầu và vấn đề của trẻ em và giới trẻ[173]. Bằng cách ấy, dưới ánh sáng của các nguyên tắc và nội dung trong bản hướng dẫn này, họ phải đặt mình «trong chính tinh thần làm phấn khởi cha mẹ»[174]. Tuy nhiên, nếu cha mẹ tin rằng họ có thể tự mình cung cấp nền giáo dục về tình yêu một cách thích hợp, thì họ không buộc phải chấp nhận sự hỗ trợ nói trên.

Những nguồn có giá trị cho việc giáo dục về tình yêu

147. Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình ý thức rõ nhu cầu rất lớn về những nguồn tài liệu đáng tin cậy, được chuẩn bị cách riêng cho cha mẹ, phù hợp với các nguyên tắc được trình bày trong bản hướng dẫn này. Những cha mẹ nào có khả năng chuyên môn trong lĩnh vực này và xác tín vào các nguyên tắc ấy thì có bổn phận dấn thân vào việc soạn thảo tài liệu. Nhờ đó, họ có thể chia sẻ kinh nghiệm và sự khôn ngoan của mình để giúp đỡ các cha mẹ khác trong việc giáo dục con cái sống đức khiết tịnh. Cha mẹ cũng cần đón nhận sự hỗ trợ và sự giám sát thích hợp từ đấng bản quyền trong Giáo Hội, nhằm cổ võ những tài liệu phù hợp, cũng như loại bỏ hay chỉnh sửa những gì không tương hợp với các nguyên tắc của bản hướng dẫn này — xét về giáo huấn, sự đúng thời điểm, nội dung và phương pháp giáo dục[175]. Những nguyên tắc ấy cũng được áp dụng cho mọi phương tiện truyền thông xã hội hiện đại. Một cách đặc biệt, Hội đồng Tòa Thánh chúng tôi tín thác việc nâng cao nhận thức và hỗ trợ cha mẹ cho các Hội đồng Giám mục, để các ngài có thể đảm nhận trách nhiệm khi cần thiết, kể cả trong việc đối diện với các chương trình giáo dục quốc gia, pháp luật, cũng như các lãnh vực thuộc về gia đình và cha mẹ.

Trách nhiệm liên đới với các bậc cha mẹ

148. Trong việc thi hành sứ vụ yêu thương đối với con cái, cha mẹ cần có sự nâng đỡ và cộng tác của các thành viên khác trong Giáo Hội. Quyền lợi của cha mẹ phải được thừa nhận, bảo vệ và duy trì, không chỉ để bảo đảm cho việc đào luyện vững chắc của trẻ em và thanh thiếu niên, mà còn để duy trì trật tự đúng đắn trong sự cộng tác và phối hợp giữa cha mẹ và những người có thể giúp họ chu toàn trách nhiệm. Tương tự, trong các giáo xứ hoặc trong những hình thức tông đồ khác, các linh mục, phó tế và nam nữ tu sĩ cần nâng đỡ và khích lệ cha mẹ trong nỗ lực giáo dục con cái. Về phần mình, cha mẹ cần ghi nhớ rằng gia đình không phải là cộng đoàn duy nhất hay độc quyền trong việc giáo dục. Vì thế, họ có bổn phận vun trồng một mối quan hệ thân ái và chủ động với những ai có thể giúp đỡ mình, trong khi vẫn luôn ghi nhớ các quyền bất khả nhượng của mình.

Hy vọng và tín thác

149. Trước những thách đố của đức khiết tịnh Kitô giáo, những ân huệ tự nhiên và ân sủng mà Thiên Chúa ban cho cha mẹ vẫn luôn là nền tảng vững chắc nhất để Giáo Hội giáo dục con cái. Phần lớn việc huấn luyện trong gia đình diễn ra một cách gián tiếp, trong bầu khí đầy yêu thương và dịu dàng, vì nó phát sinh từ sự hiện diện và gương sáng của cha mẹ, khi tình yêu của họ thanh khiết và quảng đại. Nếu cha mẹ được tín nhiệm trong sứ mạng giáo dục về tình yêu, họ sẽ thêm nhiệt huyết để vượt thắng những thách đố và vấn đề của thời đại bằng chính sức mạnh tình yêu của mình.

150. Vì thế, Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình tha thiết khuyến khích các bậc cha mẹ, ý thức rằng họ được nâng đỡ bởi hồng ân Thiên Chúa, hãy tin tưởng vào những quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái, và tiến bước với sự khôn ngoan cùng ý thức sáng suốt. Trong sứ mạng cao quý này, cha mẹ luôn có thể đặt niềm tín thác nơi Thiên Chúa qua lời cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Đấng Bầu Cử dịu dàng, Đấng ban phát mọi phúc lộc. Họ hãy khẩn cầu sự chuyển cầu quyền năng và che chở của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Trinh Nữ – Thân Mẫu của tình yêu tuyệt mỹ và là mẫu gương của đức khiết tịnh trung tín. Họ cũng hãy khẩn xin Thánh Giuse, bạn trăm năm công chính và thanh khiết của Mẹ, để noi gương trung thành và lòng khiết tịnh của ngài[176]. Cha mẹ luôn có thể kiên vững cậy trông vào tình yêu mà họ trao ban cho con cái – một tình yêu «xua tan mọi sợ hãi», «tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả» (1 Cr 13,7). Tình yêu ấy là bất diệt và phải được hướng về cõi vĩnh hằng, về hạnh phúc muôn đời mà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã hứa ban cho những ai bước theo Người: «Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa» (Mt 5,8).

Thành Vaticanô, 08 tháng 12 năm 1995.

Đức Hồng Y ALFONSO LÓPEZ TRUJILLO

Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình

+ Đức Ông ELIO SGRECCIA, thư ký

Chuyển ngữ: Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh,

Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận Đà Lạt

Từ: vatican.va

 


[1] Hội Đồng Toà Thánh Về Gia Đình, Tài liệu Sự Thật và Ý Nghĩa về Tính dục Con người. Những định hướng để giáo dục trong gia đình, 08/12/1995: tập sách nhỏ, Thành Vaticanô 1995; Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh, Ban Mục Vụ Gia đình Giáo Phận Đà Lạt chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ý: The Pontifical Council For The Family, Sessualità umana: verità e significato, orientamenti educativi in famiglia; Trích trong quyển: ENCHIRIDION della FAMIGLIA; DOCUMENTI MAGISTERIALI E PASTORALI SU FAMIGLIA E VITA; 1965 – 2004; A cura del PONTIFICIO CONSIGLIO PER LA FAMIGLIA. Trang 681 – 752.

Nguồn: https://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/family/documents/rc_pc_family_doc_08121995_human-sexuality_it.html

[2]Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio (Về những bổn phận của gia đình Kitô hữu), 22/11/1981, số 21.

[3]Familiaris Consortio, số 33.

[4] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium (Về Giáo Hội), 21/11/1964, số 11.

[5] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1632; Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (Về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay), 21/11/1964, số 49.

[6] Đức Gioan Phaolô II, Lá thư gửi các gia đình Gratissimam Sane (Lời chào thăm hết sức ưu ái), 02/02/1994, số 20.

[7] Gratissimam Sane, số 16.

[8] Thánh Clêmentê thành Rôma, Epistula ad Corinthios (Thư gửi tín hữu Côrintô), 61,1-2; x. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1900.

[9] Familiaris Consortio, số 11; x. Gaudium et Spes, số 12

[10] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris Dignitatem (Phẩm giá người nữ), ban hành ngày 15/08/1988, các số 7 và 18.

[11] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu giáo dân), 30/12/1988, số 34.

[12] Gaudium et Spes, số 22.

[13] Gratissimam Sane, số 14.

[14] Như trên.

[15] Bộ Giáo Dục Công Giáo, Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản (Đề cương cho việc giáo dục giới tính), 01/11/1983, số 4.

[16] Đức Gioan Phaolô II, Nhân vị-con người trở nên hồng ân trong sự tự do của tình yêu, tiếp kiến chung 16/01/1980.

[17] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 6.

[18] Gratissimam Sane, số 13.

[19] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Sự sống con người), 25/03/1995, số 92.

[20] Đức Gioan Phaolô II, Mạc khải và khám phá về ý nghĩa hôn ước của thân xác, tiếp kiến chung ngày 09/01/1980.

[21] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2349.

[22] Familiaris Consortio, số 11.

[23] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 4.

[24] Familiaris Consortio, số 11.

[25] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2360.

[26] Familiaris Consortio, số 14.

[27] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2337.

[28] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2339.

[29] Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn văn tại cuộc hội thảo về đề tài «Sinh sản có trách nhiệm» cho các cựu sinh viên Đại Học Công Giáo Thánh Tâm và Giáo Hoàng Học Viện Gioan Phaolô II, 17/09/1983.

[30] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2349.

[31] x. số 54 trong tài liệu này.

[32] Đức Phaolô VI, Thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người), 25/07/1968, các số 8 và 9.

[33] Một điều đừng bao giờ làm đó là sự lừa dối, như Thánh Gioan thành Avila đã nhận xét: một số người bị u tối đến mức «họ tưởng rằng một khi họ có ý hướng làm việc gì, họ sẽ làm bằng mọi cách cả khi nó có thể trái ngược với điều răn của Thiên Chúa; họ nói đến việc họ yêu Chúa nhiều đến nỗi mà, mặc dù họ vi phạm điều răn của Chúa, họ cũng không đánh mất tình yêu Chúa. Họ quên mất rằng chính miệng Con Thiên Chúa đã rao giảng điều hoàn toàn ngược lại: "Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy" (Ga 14,21). Và, "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy" (Ga 14,23). Và, ai không yêu mến Thầy, kẻ ấy không giữ lời Thầy. Điều đó giúp ta hiểu rõ ràng rằng người không giữ lời Chúa thì chính người ấy không có tình bạn cũng chẳng có tình yêu nơi mình. Như Thánh Augustinô nói: "Không ai có thể yêu mến nhà vua, nếu người ấy gớm ghét lệnh truyền của ngài"» (Audi filia, c. 50).

[34] Đức Gioan Phaolô II, Điều hòa sinh sản chân chính là thành phần của linh đạo hôn nhân và gia đình, bài giáo lý ngày 14/11/1984, số 2.

[35] x. Evangelium Vitae, số 97.

[36] Familiaris Consortio, số 36-37.

[37] Công Đồng Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum Educationis (Về Giáo dục Kitô Giáo), 28/10/1965, số 3.

[38] Gratissimam Sane, số 16.

[39] Gratissimam Sane, số 16.

[40] Gratissimam Sane, số 13.

[41] Familiaris Consortio, số 66.

[42] Familiaris Consortio, số 66.

[43] Như trên.

[44] Lumen Gentium, số 11.

[45] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Hội nghị khoáng đại lần thứ XVI của Hội Đồng Giám Mục Ý, ngày 15/05/1979.

[46] Lumen Gentium, số 11; Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2013.

[47] Humanae Vitae, số 8.

[48] Gratissimam Sane, số 7.

[49] Gaudium et Spes, số 24.

[50] Gratissimam Sane, số 8.

[51] x. Humanae Vitae, số 9.

[52] Gratissimam Sane, số 8.

[53] Nghi thức cử hành hôn phối, số 60.

[54] Familiaris Consortio, số 20.

[55] Gratissimam Sane, số 12.

[56] x. Giáo phụTertullianô, Ad uxorem (Lá thư gửi người vợ), II, VIII, 6-8: CCL 1,393-394; x. Familiaris Consortio, số 13.

[57] Familiaris Consortio, số 16.

[58] Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn văn cho các tham dự viên tại cuộc Hội thảo về «Các gia đình hướng đến việc phục vụ sự sống», được xúc tiến bởi Hội đồng Giám mục Ý, 28/04/1990.

[59] Familiaris Consortio, số 37.

[60] Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae Caritatis (Canh tân đời sống tu trì), 28/10/1965, số 24.

[61] Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Optatam Totitus (Việc đào tạo linh mục), 28/10/1965, số 2.

[62] Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (Sứ vụ và đời sống linh mục), 07/12/1965, số 11.

[63] x. Familiaris Consortio, số 16.

[64] Gratissimam Sane, số 16.

[65] Familiaris Consortio, số 38.

[66] Familiaris Consortio, số 36; x. Gravissimum Educationis, số 3.

[67] x. Gravissimum Educationis, số 3.

[68] Hiến chương các Quyền Gia đình, khoản số 5.

[69] Familiaris Consortio, số 37.

[70] Familiaris Consortio, số 37; Hiến chương về các quyền gia đình, khoản 5.

[71] Một vấn đề tế nhị và phức tạp từ quan điểm về việc giáo dục con cái, điều không thể đề cập đến cách đầy đủ trong tài liệu này, nó có liên quan đến việc truyền nhiễm AIDS qua việc sử dụng ma túy và bởi con đường tình dục. Các Giáo Hội địa phương được tham gia vào nhiều công việc trợ giúp để nâng đỡ những người bị lây nhiễm cũng như công tác phòng chống.

Đặc biệt đối với công tác phòng chống AIDS, nỗ lực đề cao giá trị tương giao tính dục nhằm hướng về gia đình, và thật cần thiết để điều chỉnh chủ trương truyền bá từ chiến dịch thông tin dựa trên cái được gọi là «tình dục an toàn» và sự quảng bá những phương tiện bảo vệ như bao cao su chẳng hạn. Việc tuyên truyền này, tự bản thân nó hoàn toàn trái ngược với luân thường đạo lý, thậm chí nó tỏ ra nguỵ biện và phá hoại bởi gia tăng sự chung chạ tình dục bừa bãi và những quan hệ tự do phóng túng với một ý tưởng sai lầm về an toàn. Những nghiên cứu khách quan và có tính khoa học nghiêm ngặt đã cho thấy tỷ lệ thất bại của các phương tiện đó là rất cao.

[72] Familiaris Consortio, số 37.

[73] x. Gaudium et Spes, số 52.

[74] x. Familiaris Consortio, số 39.

[75] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (Bách chu niên), 10/05/1991, số 49.

[76] x. Familiaris Consortio, số 18:…«Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất ý nghĩa nếu không nhận lấy mạc khải về tình yêu, nếu không có kinh nghiệm về tình yêu và nếu không nhận lấy kinh nghiệm ấy làm của mình và hăng say dự phần vào đó»; số 63: luật tình yêu của Tin Mừng; số 64: Lòng bác ái của gia đình Kitô giáo.

[77] Familiaris Consortio, số 37.

[78] x. Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học, I-II, q. 106, a. 1.

[79] x. Như trên, I-II, q. 153, a. 3.

[80] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 3.

[81] x. Familiaris Consortio, số 76; cũng xem Định hướng giáo dục về tình yêu nhân loại, số 68; x. Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, Sự khiêu dâm và bạo lục trong các phương tiện truyền thông xã hội: Một lời giải đáp mang tính mục vụ, 07/05/1989, số 7.

[82] Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn văn cho các tham dự viên trong cuộc gặp gỡ được Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình và Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội đề bạt với đề tài «Các quyền gia đình và các phương tiện truyền thông xã hội», 04/06/1992, Báo Quan Sát Viên Rôma ngày 05/06/1993, trang 5.

[83] Đức Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày Truyền thông Xã hội lần XV ngày 31/05/1981 với chủ đề: «Truyền thông xã hội là để phục vụ cho sự tự do có tính trách nhiệm của con người», số 5.

[84] Như trên.

[85] Familiaris Consortio, số 76.

[86] x. Mulieris Dignitatem, các số 18-19.

[87] x. Familiaris Consortio, số 25.

[88] x. Familiaris Consortio, số 37.

[89] Gratissimam Sane, số 16.

[90] Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Capitol Mall, Washington DC, Hoa Kỳ, 07/10/1979, số 5.

[91] x. Familiaris Consortio, số 59-61; Persona humana, số 12.

[92] Familiaris Consortio, số 59.

[93] x. Familiaris Consortio, số 60.

[94] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 48.

[95] x. Hiến chương các quyền gia đình, khoản 5.

[96] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 69.

[97] Familiaris Consortio, số 37.

[98] x. Familiaris Consortio, số 37.

[99] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 58.

[100] x. Familiaris Consortio, số 16.

[101] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng về Tin Mừng theo thánh Mátthêu, 81, 5: PG 58, 737.

[102] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn Persona humana (Về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục), 29/12/1975, số 12.

[103] Persona humana, số 9.

[104] Gaudium et Spes, số 24.

[105] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng về Tin Mừng theo thánh Mátthêu, 7,7: PG 57, 80-81.

[106] Familiaris Consortio, số 37.

[107] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Catechesi Tradendae (Dạy Giáo Lý trong Thời Đại Chúng Ta), 16/10/1979, số 38.

[108] Trong những nền văn hóa khác nhau thái độ tích cực này được bắt rễ sâu xa và tuổi dậy thì được tổ chức với «nghi thức chuyển tiếp», «nghi thức lên đường», «nghi thức vào đời»… hay hình thức bắt đầu vào đời sống trưởng thành. Những trẻ Công giáo, dưới sự hướng dẫn cẩn thận của Giáo Hội, người ta có thể giả định hiện hữu những gì tốt lành và đúng đắn trong những tục lệ này, thanh tẩy chúng khỏi tất cả những gì có thể không phù hợp hoặc trái đạo đức.

[109] x. Mulieris Dignitatem, số 17.

[110] Familiaris Consortio, số 38.

[111] Gaudium et Spes, số 49.

[112] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2052.

[113] Gaudium et Spes, số 16.

[114] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1777.

[115] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1778.

[116] Thánh Têrêsa, Những Bài Thơ, 5-9; Thánh Gioan Thánh Giá, Những Bài Thơ, 10.

[117] x. Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 90.

[118] Familiaris Consortio, số 53.

[119] Christifideles Laici, số 58.

[120] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Gửi người trẻ toàn cầu Parati Semper (Hãy luôn luôn sẵn sàng), 31/03/1985, số 9. 

[121] Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium (Về Giáo Hội), 21/11/1964, Chương V.

[122] Sanctitatis clarior, lời mở đầu.

[123] x. Lumen Gentium, các số 39-42: Lời mời gọi mọi người nên thánh trong Giáo Hội.

[124] Christifideles Laici, số 16.

[125] x. Giáo phụ Tertullianô, De exhortatione castitatis, 10: CChL 2, 1029-1030; Thánh Cyprianô, De habitu virginum, 3 e 22: CSEL 3/1, 189 e 202-203; Thánh Atanasiô, De virginitate: PG 28, 252-281; Thánh Gioan Kim Khẩu, De virginitate: SCh 125:«Ai hạ giá hôn nhân, thì người đó cũng hạ giá sự vinh quang của đức trinh khiết; ai ca ngợi hôn nhân, thì người đó càng khâm phục đức trinh khiết. Bởi vì điều gì còn phải so sánh với một điều xấu hơn mới thấy là tốt, thì đó chưa phải là hoàn toàn tốt; còn điều gì tốt hơn nhưng cái mọi người cho là tốt, thì đó mới là điều tốt tuyệt hảo» (x. Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1620); Đức Piô XII, Tông huấn Menti nostrae, 23/12/1950; Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, Bài diễn văn cho các tham dự viên Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất về «Các ơn gọi hướng tới bậc trọn lành trong thế giới ngày nay», do Thánh Bộ Tu Sĩ, 16/12/1961; Lumen Gentium, số 42; Familiaris Consortio, số 16.

[126] Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng Thánh lễ tại Limerick (Ái Nhĩ Lan), 01/10/1979.

[127] Gratissimam Sane, số 12.

[128] Cha mẹ cần biết các tài liệu quan trọng: Gaudium et spes, các số 47-52; Humanae Vitae; Familiaris Consortio; Amoris Laetitia; Nhân vị con người và việc chăm sóc mục vụ cho người đồng tính luyến ái; Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản; Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo các số 2331-2400, các số 2514-2533.

[129] Persona humana, số 9.

[130] Chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính luyến ái; Sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, các số 2357-2359.

[131] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, số 2357.

[132] Persona humana, số 8.

[133] Như trên.

[134] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, số 2358.

[135] Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, số 2359.

[136] Điều này, cùng với sự nhận thức về sức mạnh riêng biệt của dục tình (libido) – theo như biết bao nghiên cứu làm nổi bật về tâm lý con người –, nó giúp chúng ta hiểu giáo huấn Giáo Hội về tính chất nghiêm trọng của mọi việc sử dụng vô trật tự về tính dục: «Theo truyền thống Kitô giáo ..., và cũng như lý trí đúng đắn thừa nhận, trật tự luân lý tính dục liên quan đến các giá trị cao cả của đời sống con người đến nỗi mọi vi phạm trực tiếp đến trật tự này đều là nghiêm trọng một cách khách quan» (Persona Humana, Số 10). Cũng lưu ý rằng Giáo Hội dạy tính chất nghiêm trọng do chủ đích của hành động, nhưng không loại trừ tính chất không mang trọng tội bởi xuất phát từ ý chí bất toàn; thật vậy, trong cùng một số đó của Tuyên ngôn Persona Humana giải thích rõ cách riêng trong lĩnh vực này thì có thể xảy ra bất toàn nào đó.

[137] Evangelium Vitae, số 97.

[138] Người ta chỉ cần nghĩ đến những chuyện thường lạm dụng thái quá hiện có trong một số vũ trường karaoke kể cả giữa thanh thiếu niên dưới 16 tuổi.

[139] x. Familiaris Consortio, số 66.

[140] Những lời khuyên bảo tiếp theo đã được thực hiện theo thể thức sau: a) dưới ánh sáng của quyền mỗi con người đối về tin và thực hành Đức tin Công giáo: xem Dignitatis Humanae, các số 1, 2, 5, 13, 14; Hiến chương các quyền gia đình, khoản 7; b) xét về mặt các quyền tự do và phẩm giá của gia đình: xem Lời nói đầu của Hiến chương về các quyền của gia đình; Dignitae Humanae, số 5; Familiaris Consortio, các số 26, 42, 46.

[141] x. Gravissimum Educationis, số 3; Familiaris Consortio, số 36; Hiến chương về các quyền của gia đình, khoản 5.

[142] Familiaris Consortio, 37.

[143] x. Hiến chương các quyền gia đình, khoản 8a và 5c; Bộ Giáo Luật năm 1983, các khoản 215, 223 § 2, 799; Gratissimam Sane, số 16.

[144] x. Hiến chương các quyền gia đình, khoản 5 c, d, e, lý do quyền được biết ngụ ý sự giám sát và kiểm soát của cha mẹ.

[145] x. Hiến chương các quyền gia đình, khoản 5 c, d, e, lý do việc tham gia của cha mẹ tạo sự dễ dàng cho việc giám sát và kiểm tra việc giáo dục về tình yêu của con cái họ.

[146] x. Hiến chương các quyền gia đình, khoản 5 c, d, e, lý do cha mẹ có quyền từ khước việc huấn luyện tính dục cho trẻ em là để cho phép họ được toàn quyền thực hiện việc giáo dục con cái theo lương tâm của mình (khoản 5 a).

[147] x. Hiến chương các Quyền Gia đình, khoản 7.

[148] x. Hiến chương các Quyền Gia đình, khoản 4e.

[149] x. Gravissimum Educationis, số 1.

[150] x. Các quyền sống đức khiết tịnh của trẻ nhỏ, xem số 118 trong tài liệu này, và tương ứng với quyền của cha mẹ, ở số 117.

[151] x. Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, các số 101-103.

[152] Việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính luyến ái, số 17.

[153] Gravissimum Educationis, số 1.

[154] Familiaris Consortio, số 37.

[155] Ví dụ như: a) Các chất liệu khiêu dâm có thể nhìn thấy, b) các hoạt động khiêu dâm bằng văn bản hay bằng lời nói (Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 76), c) ngôn ngữ tục tĩu hoặc thô tục, d) chuyện hài hước thiếu đứng đắn, e) sự phỉ báng đức khiết tịnh và f) tìm cách giảm thiểu tính nghiêm trọng của tội lỗi phạm đến nhân đức này.

[156] Loại trừ bối cảnh giảng dạy cách thận trọng và thích hợp về việc điều hòa sinh sản tự nhiên.

[157] x. Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 58.

[158] Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 63.

[159] Familiaris Consortio, số 21.

[160] x. Gratissimam Sane, số 13.

[161] x. Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, «Tài liệu làm việc» Gia tăng dân số: Những chiều kích đạo đức và mục vụ, 25.03.1994, các số 28 và 84; Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 62.

[162] Đức Gioan Phaolô II, Thư gửi các Nhà lãnh đạo quốc gia dịp diễn ra Hội nghị Cairô, 19.03.1994.

[163] x. Evangelium Vitae, các số 58-63.

[164] x. Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, số 62.

[165] Familiaris Consortio, số 32.

[166] x. Veritatis splendor, các số 95-97.

[167] x. Veritatis splendor, số 41: Sự tự trị đích thật về luân lý của con người.

[168] x. Định hướng giáo dục về tình yêu con người, số 58.

[169] x. Tài liệu như trên, số 19; Familiaris Consortio, số 37.

[170] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Đức tin và Hội nhập văn hoá, I, 10 (diễn ra từ ngày 3-8/10/1988): tạp chí Omnis Terra, Năm VII, số 21, 09-12/1989, tr. 220.

[171] x. Familiaris Consortio, số 66.

[172] x. Familiaris Consortio, các số 36 và 40; Gratissimam Sane, số 16.

[173] Những ai giúp đỡ cha mẹ có thể áp dụng các nguyên tắc được trình bày cho các nhà giáo dục trong tài liệu Những định hướng cho việc giáo dục về tình yêu nhân bản, các số 79-89.

[174] Familiaris Consortio, số 37.

[175] x. Familiaris Consortio, các số 65-76; 121-144.

[176] x. Redemptoris custos, số 31.