Thần học thân xác của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (48,49)
Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ”
THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
XLVIII
SỰ BỘC PHÁT CÓ TÍNH NHÂN VĂN THẬT SỰ
KHI ĐÓ LÀ HOA QUẢ CHÍN MUỒI CỦA TÂM HỒN
1. Hôm nay chúng ta quay lại với phân tích, mà ta đã bắt đầu từ chương trước, về tương quan giữa cái «đạo đức» (etico) và cái gọi là «dục tình» (erotico). Những suy tư của chúng ta hướng về khung cảnh dệt nên lời Đức Kitô tuyên bố trong diễn từ trên núi, những lời đó nối kết với giới răn «chớ ngoại tình», và đồng thời cũng xác định «dục vọng» («nhìn ... mà thèm muốn») là «ngoại tình trong lòng». Từ những suy tư này ta thấy «nền đạo đức» (ethos) được nối kết với việc khám phá ra một trật tự giá trị mới. Cần phải không ngừng khám phá lại ý nghĩa hôn phối của thân xác và phẩm giá đích thực của sự trao hiến trong những gì liên quan tới «dục tình» (erotico). Đây là phận vụ của tinh thần con người, là công việc mang bản chất đạo đức. Nếu người ta không đảm nhận phận vụ đó, thì sự lôi cuốn do khoái lạc và đam mê của thân xác có thể dừng lại chỉ ở dục vọng mà thiếu đi giá trị đạo đức. Và như thế, con người cả nam và nữ không kinh nghiệm được thứ «ái tình» (eros) viên mãn, được coi như là bệ phóng của tinh thần con người hướng tới chân, thiện và mỹ và cũng là cái mà nhờ đó «dục tình» (erotico) mới có thể trở nên thật, tốt và đẹp. Bởi thế, ethos cần thiết phải trở thành mô thức nền tảng của eros.
2. Những suy tư trên đây nối kết chặt chẽ với vấn đề về sự bộc phát. Người ta thường hay cho rằng chính đạo đức (ethos) đã làm mất đi tính bộc phát tự nhiên trong những gì liên quan đến dục tình (erotico) trong cuộc sống và thái độ sống của con người; và bởi lí do này mà người ta đòi loại bỏ đạo đức (ethos) để tạo thuận lợi hơn cho ái tình (eros) biểu lộ mà thôi. Cả những lời trong diễn từ trên núi dường như cũng ngăn cản điều «tốt đẹp» này. Thế nhưng, ý kiến này là sai lầm, và dẫu sao cũng còn thiển cận. Nếu chấp nhận và ủng hộ ý kiến này chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới tầm vóc viên mãn của eros, và điều đó chắc chắn sẽ có ảnh hưởng trong phạm vi «thực hành» (praxis) liên hệ, tức là ảnh hưởng tới lối sống (hành vi ứng xử) của chúng ta và cả trong kinh nghiệm cụ thể về các giá trị. Thật vậy, người nào đón nhận nền đạo đức (ethos) của diễn từ Mt 5,27-28 phải biết rằng họđược kêu gọi bộc lộ hoàn toàn tự nhiên và chín chắn trong các mối quan hệ nam nữ vốn có hấp lực trường cửu. Một lối sống bộc lộ tự nhiên như thế là hệ quả dần dần theo thời gian của sự phân định những xung năng trong chính tâm hồn mình.
3. Những lời của Đức Kitô rất nghiêm ngặt. Chúng đòi hỏi, trong phạm vi quan hệ với những người khác phái, con người phải có ý thức đầy đủ và sâu sắc về chính những hành động của mình, nhất là hành động nội tâm; rằng con người phải ý thức những xung năng nổi dậy trong «tâm hồn» mình, từ đó để mà có thể nhận dạng và lượng giá chúng một cách chín chắn. Những lời của Đức Kitô đòi hỏi trong lãnh vực này, một lãnh vực có vẻ như chỉ thuộc về thân xác và giác quan nghĩa là thuộc về con người bên ngoài, con người cần phải biết sống thực sự con người nội tâm; biết tuân theo lương tâm ngay thẳng; biết làm chủ thực sự các xung năng thầm kín của mình, như người lính canh giám sát một mạch nguồn kín ẩn; và sau cùng, biết dẫn xuất ra từ tất cả những xung năng ấy cái gì là phù hợp với một «tâm hồn trong sạch», bằng cách xây dựng trong tâm hồn cách hợp lí một ý thức cá nhân về ý nghĩa hôn phối của thân xác, để từ đó nội tâm mở ra một không gian cho sự tự do trao hiến.
4. Thế nên, nếu con người muốn đáp trả tiếng gọi diễn tả từ đoạn Tin mừng Mt 5,27-28, thì phải kiên nhẫn và thông minh mà học cho biết đâu là ý nghĩa của thân xác, ý nghĩa của nữ tính và nam tính. Người ấy phải học biết điều đó không chỉ qua con đường khách quan hóa nhận thức trừu tượng (dù điều này cũng rất cần thiết), nhưng nhất là trong phạm vi «tâm hồn» riêng mình với những phản ứng nội tâm. Đây là một thứ «khoa học» ta có thể học được thực sự không chỉ từ sách vở, vì điều thiết yếu trước hết là «nhận thức» sâu xa nội tâm con người.
Trong lãnh vực của cái biết này, con người học phân biệt giữa, một đàng, những gì tạo nên nét phong phú đa dạng của giới tính nam và nữ trong những dấu chỉ biểu lộ ơn gọi và sức hấp dẫn vĩnh cửu thuộc bình diện tạo dựng, và đàng khác, những gì là dấu hiệu đơn thuần của dục vọng. Và cho dẫu có sự trộn lẫn trong một mức độ nào đó những xung động nội tâm khác nhau và nhiều màu sắc tinh tế này, nhưng cũng cần phải nói rằng con người nội tâm đã được Đức Kitô mời gọi đạt được sự đánh giá chín chắn và trọn vẹn, giúp họ phân biệt và phán định những xung động khác nhau của chính tâm hồn mình. Và cần phải nói thêm rằng nhiệm vụ này có thể thực hiện được và quả thật xứng hợp với con người.
Thật ra, sự phân định mà ta đang nói tới có liên hệ thiết yếu với tính bộc phát của con người. Cấu trúc con người chủ thể trong lãnh vực này cho thấy có một sự phong phú đặc biệt và phân biệt rõ ràng. Thế nên, thí dụ như, một bên là sự vui thích cao thượng, bên kia lại là ham muốn tình dục; khi ham muốn tình dục kết hợp với một niềm vui thích cao thượng, nó sẽ khác với một ham muốn đơn thuần. Tương tự như vậy, trong cảnh giới của những phản ứng tức thời của «tâm hồn», sự kích thích nhục cảm rất khác với cảm xúc sâu xa không chỉ do cảm tính bên trong, nhưng là chính dục tính cảm ứng trước vẻ lộ hiện toàn thể của người nữ và của người nam. Ở đây ta không thể triển khai rộng hơn nữa luận cứ này. Nhưng chắc chắn một điều đó là, nếu chúng ta khẳng định rằng những lời của Đức Kitô theo Mt 5,27-28 là nghiêm ngặt, thì chúng nghiêm ngặt còn theo nghĩa tự chúng hàm chứa đòi hỏi sâu xa liên hệ đến tính bộc phát tự nhiên của con người.
5. Không thể có một sự bộc phát như thế trong mọi xung lực và xung năng sinh ra thuần túy từ dục vọng xác thịt mà không có một lựa chọn và một cấp trật thích hợp nào. Chính phải có khả năng làm chủ được các xung lực ấy con người mới đạt tới được sự bộc phát sâu xa và chín chắn nhất, và với điều đó «tâm hồn» con người, một khi điều khiển được bản năng, mới tái khám phá vẻ đẹp tinh thần của thân xác hiển lộ nữ tính và nam tính của nó. Nhờ khám phá đó củng cố thêm trong thâm tâm của ta niềm xác tín và trong ý chí của ta hướng định vị cho những lựa chọn tương lai cũng như ham muốn đơn thuần, khiến tâm hồn con người có thể tham dự, có thể nói, vào một sự bộc phát khác không hề biết hoặc biết đến rất ít «con người xác thịt». Chắc chắn là qua những lời của Đức Kitô theo Mt 5,27-28 chúng ta được mời gọi sở hữu đích xác sự bộc phát đó. Và có lẽ hướng «thực hành» («praxis») quan trọng nhất – liên quan đến những hành vi «nội giới» sâu hơn – chính là mở một con đường dần dần đưa tới sự bộc phát tự nhiên nói trên.
Đây là một chủ đề rộng lớn chúng ta sẽ quay lại về sau khi thích hợp, khi chúng ta dành nỗ lực để cho thấy đâu là bản chất thật của «tâm hồn trong sạch» theo Tin mừng. Giờ đây để kết thúc chúng ta có thể nói rằng những lời diễn từ trên núi Đức Kitô kêu gọi người nghe – những người khi ấy cũng như chúng ta bây giờ – hãy chú ý đến «dục vọng» («cái nhìn dục vọng»), gián tiếp chỉ ra con đường dẫn đến sống sự bộc phát chín chắn của «tâm hồn» con người, là thứ bộc phát không dập tắt những ham muốn và khát vọng cao thượng, nhưng ngược lại, còn giải phóng chúng, và theo một nghĩa nào đó, làm cho chúng thoải mái hơn.
Bây giờ chỉ cần điều, mà chúng ta đã nói rồi về mối tương quan giữa cái «đạo đức» (etico) và cái gọi là «dục tình» (erotico) theonền đạo đức (ethos) của diễn từ trên núi, là đủ.
XLIX
ĐỨC KITÔ MỜI GỌI TA TÌM GẶP LẠI
NHỮNG HÌNH THÁI SỐNG ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI MỚI
1. Lúc khởi đầu khi xét đến những lời của Đức Kitô trong diễn từ trên núi (Mt 5,27-28), chúng ta đã nhận thấy chúng hàm chứa một ý nghĩa đạo đức học và nhân học sâu sắc. Vấn đề ở đây là đoạn văn Tin mừng mà Đức Kitô nhắc đến lệnh truyền: «Chớ ngoại tình», và Người còn thêm: «Ai nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tìnhvới người ấy (hoặc hướng vềngười ấy) rồi». Chúng ta nói đến ý nghĩa đạo đức học và nhân học của những lời ấy, bởi vì chúng hàm chứa hai chiều kích liên kết mật thiết với đạo đức (ethos) và với con người «lịch sử». Trong những phân tích trước đây, chúng ta đã nỗ lực theo đuổi hai chiều kích này, và luôn ý thức rằng những lời của Đức Kitô hướng về «tâm hồn», tức con người nội tâm. Con người nội tâm là chủ thể riêng của ethos thân xác, và Đức Kitô muốn tâm hồn và ước muốn của các thính giả và môn đệ Người thấm nhuần điều đó. Hẳn đây là một nền đạo đức (ethos) «mới». Mới, là so với nền đạo đức (ethos) của những người thời Cựu ước, như chúng ta đã cố chứng minh qua một phân tích thật đặc biệt. Nền đạo đức này là «mới» còn theo nghĩa là mới so với tình trạng con người «lịch sử», là tình trạng sau khi phạm tội nguyên thủy, tức là sánh với «con người dục vọng».
Thế nên, đó là điều «mới mẻ» theo nghĩa và với tầm vóc phổ quát. Nó «mới» đối với mọi con người ở bất cứ địa dư hoặc bất cứ thời đại lịch sử nào.
2. Nền đạo đức (ethos) «mới» này trổi hiện từ viễn ảnh những lời của Đức Kitô loan báo trong diễn từ trên núi và nhiều lần chúng ta đã gọi đó là «đạo đức của ơn cứu chuộc» hay nói chính xác hơn, đó là đạo đức của sự cứu chuộc thân xác. Theo dòng suy niệm của thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma, chúng ta đã biết đến sự đối nghịch của «cảnh nô lệ mục nát» (Rm 8,21) và «lụy phục sự hư luống» (ibid., 8,20) – là hoàn cảnh mà toàn thể tạo thành phải rơi vào do tội lỗi – với khát vọng «thân xác chúng ta được cứu chuộc» (ibid., 8,23). Trong ngữ cảnh này, vị Tông đồ nói «toàn thể tạo thành» cùng rên siết với «hy vọng là chính tạo thành cũng sẽ được giải thoát khỏi cảnh nô lệ mục nát, mà vào địa vị tự do trong vinh quang thuộc hàng con cái Thiên Chúa» (ibid., 8,20-21). Như thế, thánh Phaolô đã tỏ bày hoàn cảnh của toàn thể thọ tạo, và nhất là hoàn cảnh của con người sau khi phạm tội. Trong hoàn cảnh đó, ngài đã trình bày, cùng với niềm trông đợi «phúc nghĩa tử» mới (ibid., 8,23), khát vọng «được cứu chuộc thân xác» như là cùng đích, như là hoa quả cánh chung chín muồi của mầu nhiệm cứu chuộc con người và thế giới nhờ Đức Kitô. Điều đó thật là ý nghĩa.
3. Thế thì, chúng ta có thể nói về nền đạo đức (ethos) của ơn cứu chuộc, nhất là nền đạo đức của sự cứu chuộc thân xác, theo nghĩa nào? Chúng ta phải nhìn nhận rằng trong văn mạch những lời lẽ của diễn từ trên núi (Mt 5,27-28) mà chúng ta đã phân tích, ý nghĩa này vẫn còn chưa lộ ra hoàn toàn đầy đủ. Ý nghĩa ấy sẽ hiển lộ cách đầy đủ hơn khi chúng ta khảo sát những lời khác của Đức Kitô, là những lời Người đề cập đến sự phục sinh (x. Mt 22,30; Mc 12,25; Lc 20, 35-36).
Thế nhưng, một điều chắc chắn là ngay trong diễn từ trên núi Đức Kitô cũng đã nói trong viễn tượng cứu chuộc con người và thế giới (và như thế cũng đã nói về chính «sự cứu chuộc thân xác»). Thật vậy, đây chính là viễn tượng của toàn thể Tin mừng, của tất cả giáo huấn, đúng hơn của toàn thể sứ vụ của Đức Kitô. Và dẫu rằng ngữ cảnh trực tiếp của diễn từ trên núi nói đến Lề Luật và các Tiên Tri như điểm tham chiếu lịch sử, nói đến chính Dân Chúa của Giao ước cũ, thế nhưng chúng ta không bao giờ có thể quên được rằng trong giáo huấn của Đức Kitô, tham chiếu nền tảng của vấn đề hôn nhân và vấn đề quan hệ nam nữ vẫn nại đến «thuở ban đầu». Việc nại đến thở ban đầu chỉ có thể được biện minh bởi thực tại ơn cứu chuộc; thật vậy, ngoài ơn cứu chuộc, chỉ còn có các dục vọng hay «sự nô lệ mục nát» mà thánh Phaolô đã viết (Rm 8,21). Chỉ có viễn tượng ơn cứu chuộc mới biện minh cho việc nại đến «thuở ban đầu», hay đúng hơn, là viễn tượng của mầu nhiệm tạo thành trong toàn thể giáo huấn của Đức Kitô về các vấn đề hôn nhân, vấn đề người nam và người nữ, và tương quan nam nữ. Xét cho cùng, những lời của Mt 5,27-28 được đặt ra trong cùng một viễn tượng thần học.
4. Trong diễn từ trên núi Đức Kitô không kêu gọi con người quay về với tình trạng vô tội nguyên thủy, vì nhân loại đã hoàn toàn để nó lại phía sau mình, nhưng kêu gọi con người tìm gặp lại các hình thái sống động của «con người mới», vì về cơ bản cái thuộc về «nhân tính» («umano») có ý nghĩa trường cửu và bất khả hủy diệt. Theo thể thức đó, có một mối liên kết, hay đúng hơn, có một sự tiếp nối liên tục giữa «thuở ban đầu» và viễn ảnh cứu chuộc. Trong đạo đức (ethos) của sự cứu chuộc thân xác, nền đạo đứcnguyên thủy của tạo thành phải được chuộc lại. Đức Kitô không thay đổi Lề Luật, nhưng xác nhận giới răn «ngươi chớ ngoại tình»; nhưng đồng thời, Người hướng tâm trí và cõi lòng của các thính giả về «sự công chính viên mãn» mà Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Nhà Lập Luật đã muốn và điều này đã hàm chứa trong giới răn đó rồi. Cần khám phá sự viên mãn đó trước hết với cái nhìn trong «tâm hồn», rồi đến cách sống và hành động phù hợp. Hình thái của «con người mới» có thể xuất hiện từ cách sống và hành động này, trong mức độ đạo đức (ethos) của sự cứu chuộc thân xác làm chủ dục vọng của tính xác thịt và toàn thể con người dục vọng. Đức Kitô chỉ cho thấy rõ ràng con đường để đạt đến đó phải là sống tiết độ và biết làm chủ những ham muốn, ngay từ cội rễ tức là hoàn toàn từ bên trong tâm hồn («ai nhìn ... mà thèm muốn...»). Trong mọi lãnh vực – và cách trực tiếp là trong lãnh vực của dục vọng xác thịt – đạo đức của ơn cứu chuộc đều hàm chứa mệnh lệnh phải làm chủ bản thân, và tất yếu phải biết tiết chế tức khắc và có một thói quen điều độ.
5. Tuy nhiên, sự điều độ và tiết chế không có nghĩa là bỏ không, nghĩa là coi cái đó chẳng có giá trị gì hoặc xem thường con người chủ thể. Đạo đức (ethos) của ơn cứu chuộc được thể hiện khi ta làm chủ bản thân qua việc sống tiết độ, nghĩa là biết tiết chế thèm muốn. Lối sống này vẫn tiếp tục gắn kết tâm hồn con người với giá trị mà mình đã xa lánh khi để cho nỗi thèm muốn xoay mình hướng về dục vọng thuần túy thiếu giá trị đạo đức (như đã nói trong bài phân tích trước). Trên mảnh đất đạo đức (ethos)của ơn cứu chuộc sự kết hợp với giá trị ấy nhờ một hành vi tự chủ càng được xác nhận và củng cố cách mạnh mẽ, và với một sự kiên vững sâu xa hơn. Vấn đề ở đây là giá trị của ý nghĩa hôn phối của thân xác, giá trị của một dấu chỉ trong suốt, nhờ đó mà Đấng Tạo Hóa – cùng với sự hấp dẫn nhau vĩnh cửu giữa đàn ông và đàn bà do dị biệt giới tính – đã viết trong trái tim của cả hai người tặng phẩm hiệp thông, tức là thực tại mầu nhiệm của hình ảnh giống như Ngài. Giá trị đó hệ tại nơi hành động tự chủ và tiết độ, đó là điều mà Đức Kitô nhắc nhớ trong diễn từ trên núi (Mt 5,27-28).
6. Hành động ấy có thể tạo một ấn tượng là ta «xem thường chủ thể». Nó có thể tạo ra ấn tượng đó đặc biệt là khi cần thiết phải tự mình quyết định thực hiện hành vi đó lần đầu tiên, hoặc hơn thế nữa, là khi tạo thành cái thói quen ngược lại, nghĩa là khi con người đã quen thói nhân nhượng dục vọng xác thịt. Thế nhưng, cho dẫu là lần đầu tiên hay khi đã có được khả năng ấy, con người dần dần có kinh nghiệm về phẩm giá của chính mình và nhờ biết tiết độ con người xác nhận mình làm chủ bản thân và cho thấy mình thực thi điều cốt yếu của một nhân vị trong con người của mình. Hơn thế nữa, con người sẽ dần dần kinh nghiệm được sự tự do của trao hiến, vốn một mặt đó là điều kiện và mặt khác đó là lời đáp trả của chủ thể đối với giá trị hôn phối của thân xác con người, một thân xác với giới tính là nam hay là nữ. Như thế , nền đạo đức (ethos) của sự cứu chuộc thân xác được thể hiện qua sự làm chủ bản thân nhờ biết tiết chế các «ham muốn», khi tâm hồn con người kí kết giao ước với nền đạo đức này, hay đúng hơn, khi nó xác nhận giao ước này nhờ chủ thể tính toàn vẹn của mình. Đó là khi những khả năng và tâm tính sâu xa nhất mà cũng thực nhất của ngôi vị được bộc lộ ra, là khi những tầng sâu nhất tiềm ẩn trong con người, nơi đó dục vọng xác thịt có thể nói là không được bộc lộ, lên tiếng nói. Những tầng sâu này không thể trổi hiện lên khi mà trái tim con người bị khóa chặt trong nỗi hoài nghi thường xuyên, như là kết quả rút ra từ khoa giải nghĩa (ermeneutica) theo trường phái Freud. Chúng cũng không thể lộ hiện ra khi mà trong lương tâm con người cái «phản giá trị» theo trường phái Manikê thống trị. Trái lại, nền đạo đức (ethos) của ơn cứu chuộc được đặt nền tảng trên giao ước nghiêm minh với những tầng nền này.
7. Những bài suy tư sau sẽ cung cấp cho ta những bằng chứng khác về việc này. Khi kết những phân tích về lời phát biểu rất ý nghĩa của Đức Kitô theo Mt 5,27-28, chúng ta thấy rằng trong lời ấy «lòng» con người trước hết là đối tượng của một lời mời gọi chứ không phải để bị kết án. Đồng thời, chúng ta phải nhìn nhận rằng cảm thức về tội lỗi trong con người «lịch sử» không chỉ là một điểm xuất phát cần thiết, mà còn là một điều kiện thiết yếu cho khát vọng nhân đức, cho nỗi khao khát «tâm hồn trong sạch», ước muốn nên hoàn thiện. Nền đạo đức (ethos) của sự cứu chuộc thân xác vẫn bám rễ sâu trong hướng duy thực nhân học và giá trị học của mạc khải. Khi nhắc đến «tâm hồn» («lòng con người») như thế, Đức Kitô diễn tả những lời lẽ của Người một cách rất cụ thể. Thật vậy, con người là duy nhất và độc đáo nhất là do cái «lòng» của họ, là nơi họ quyết định về chính mình «từ bên trong». Phạm trù «tâm hồn» con người theo nghĩa nào đó là tương đương với chủ thể tính ngôi vị. Gợi đến tâm hồn trong sạch, như đã được diễn tả trong diễn từ trên núi, dù sao cũng làm ta nhớ lại sự đơn độc nguyên thủy, là tình trạng mà người đàn ông đã được giải thoát nhờ mở ra với tha nhân kia, tức là người đàn bà. Tâm hồn trong sạch, xét cho cùng, có nghĩa là hướng cái nhìn của ta về chủ thể (con người) kia, kẻ vốn tự nguyên thủy và trường cửu «được kêu gọi cùng» với ta.
Sự trong sạch là yêu sách của tình yêu. Là chiều kích của tình yêu thật bên trong «tâm hồn» con người.
Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch