ƠN GỌI SỐNG KHIẾT TỊNH TRONG THỰC TẠI ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ

ƠN GỌI SỐNG KHIẾT TỊNH TRONG THỰC TẠI ĐỜI SỐNG TRẦN THẾ

1. Chúng ta tiếp tục suy tư về đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời. Đây cũng là một chủ đề quan trọng đối với một thần học về thân xác đầy đủ.

Trong văn mạch trực tiếp của đoạn nói về sự tiết dục vì Nước Trời, Đức Kitô đã đưa ra một so sánh rất ý nghĩa. Điều đó còn xác nhận rõ hơn nữa điều ta tin là Người muốn đưa ơn gọi đồng trinh ấy bám rễ sâu vào thực tại đời sống trần thế, khi ta thấy Người lần theo lối suy nghĩ của những thính giả đương thời của Người. Thật vậy, Người liệt kê ra ba phạm trù những người “yêm hoạn” (sống độc thân).

Từ ngữ này muốn nói đến những khiếm khuyết về thể lí khiến người ta không thể sinh con được trong hôn phối. Khiếm khuyết thể lí đó giải thích trường hợp hai loại người đầu, khi Đức Giêsu nói về khiếm khuyết thể lí bẩm sinh tự nhiên: «người yêm hoạn do từ khi lọt lòng mẹ họ đã như thế», hoặc về khiếm khuyết thể lí do mắc phải bởi bàn tay con người can thiệp: đó là «những người không thể kết hôn vì bị người ta yêm hoạn». Như thế, cả hai trường hợp này đều nói về một tình trạng ngoài ý muốn. Trong cuộc đối chất ấy, nếu sau đó Đức Kitô nói đến loại người thứ ba «những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời» (Mt 19,12), thì hẳn Người muốn làm nổi bật hơn nữa tính cách tự nguyện và siêu nhiên của chọn lựa ấy. Là một chọn lựa tự nguyện, bởi vì những người này «tự ý không kết hôn»; là một chọn lựa siêu nhiên, bởi vì họ làm thế «vì Nước Trời».

2. Phân biệt như thế rất là rõ ràng và rất mạnh mẽ. Thế nhưng, cuộc đối chất cũng quyết liệt và hùng hồn. Đức Kitô nói với những con người mà truyền thống Cựu ước chưa hề chuyển thông cho họ lí tưởng độc thân trinh khiết. Hôn nhân thời bấy giờ là bậc sống chung cho mọi người, chỉ những kẻ bị bất lực thể lí mới là ngoại lệ. Câu trả lời của Đức Giêsu cho các môn đệ, trong Mt 19,10-12, theo một nghĩa nào đó, cũng hướng về toàn thể truyền thống Cựu ước. Bạn chỉ cần lấy một ví dụ, từ sách Thủ Lãnh chẳng hạn, mà chúng tôi gợi ra đây không phải nhằm đến sự kiện giải quyết cho bằng chính những lời lẽ rất ý nghĩa kèm theo đó. Người con gái của ông Yeptê nói với cha mình, sau khi nghe biết từ cha số phận mình đã được định phải hiến sinh bởi lời cha nàng đã khấn hứa cùng Đức Chúa: «Xin cha cho con... khóc cho đời con gái của con» (Tl 11,37). Tiếp theo sau đó, ta thấy ông nói « “Con cứ đi!” và ông để cho cô đi... Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho đời con gái của cô trên các núi đồi. Hết hai tháng, cô trở về với cha, và ông thi hành nơi cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ chồng» (Tl 11,38-39).

3. Từ đó, ta thấy trong truyền thống Cựu ước không có chỗ nào nói đến ý nghĩa này của thân xác, điều mà Đức Kitô giờ đây đang muốn lưu ý các môn đệ Người và mạc khải cho họ khi Người nói về sự tiết dục vì Nước Trời. Trong những nhân vật chúng ta biết, tức là các vị thủ lãnh tinh thần của dân Chúa trong Cựu ước, có lẽ không có ai tuyên bố hay sống sự tiết chế đó cả [1]. Hôn nhân thời đó không chỉ là một bậc sống chung cho mọi người, nhưng còn hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa là được thánh hiến bởi lời Chúa hứa với Abraham: «Phần Ta, đây là Giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số các dân tộc... Ta sẽ làm cho ngươi nảy nở sinh sôi thật đông, thật đông đảo; Ta sẽ làm cho người thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát xuất từ ngươi. Ta sẽ lập Giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác, như Giao ước vạn đại trường tồn, ngõ hầu Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này» (St 17,4.6-7). Do đó, trong truyền thống Cựu ước, hôn nhân được xem như là nguồn cho sự sinh sôi nảy nở ra hậu duệ, là một bậc sống ưu việt xét về mặt tôn giáo: và được bày tỏ ưu ái bởi chính mạc khải. Trên hậu cảnh của truyền thống này, theo đó Đấng Messia phải là «con vua Đavit» (Mt 20,30), người ta khó mà hiểu được lí tưởng sống tiết chế (vì Nước Trời). Tất cả đều ủng hộ cho hôn nhân: không chỉ bởi những lí do thuộc bản tính tự nhiên của con người, mà còn cả những lí do vì Nước Thiên Chúa [2].

4. Trong bối cảnh đó, những lời của Đức Kitô xác định một bước ngoặt quyết định. Khi Người nói với các môn đệ Người, lần đầu tiên, về sự tiết dục vì Nước Trời, người ta nhận thấy rõ ràng, xét như là con cháu của truyền thống Luật Cũ, họ phải liên hệ đời độc thân và đồng trinh với hoàn cảnh riêng của những con người, đặc biệt là nam giới, vì khiếm khuyết thể lí mà không kết hôn («những người yêm hoạn»), và do đó liên hệ trực tiếp đến những người ấy. Liên hệ ấy có một hậu cảnh đa dạng: cả về lịch sử cũng như tâm lí học, về đạo đức học cũng như về tôn giáo. Với sự liên hệ ấy Đức Giêsu, theo một nghĩa nào đó, chạm đến mọi hậu cảnh này, như Người muốn nói : Tôi biết rằng tất cả những gì tôi nói với các người bây giờ sẽ tạo ra một khó khăn rất lớn trong tâm thức các người, trong cách thức các người hiểu ý nghĩa của thân xác; thật vậy, tôi sẽ nói với các người về sự tiết dục, và chắc chắn các người sẽ liên hệ ngay đến tình cảnh những người bị khiếm khuyết thể lí, do bẩm sinh hay do người ta can thiệp. Trái lại, tôi muốn nói với các người rằng tiết dục cũng có thể là một chọn lựa tự nguyện của người ta «vì Nước Trời».

5. Matthêu ở chương 19 không ghi nhận một phản ứng tức thời nào của các môn đệ trước những lời nói này. Chúng ta chỉ thấy ý kiến về sau trong các tác phẩm của các Tông đồ, nhất là Phaolô [3]. Điều đó xác nhận những lời nói ấy đã được khắc sâu vào tâm thức của thế hệ thứ nhất của các môn đệ của Đức Kitô, và tiếp tục sinh hoa kết quả không ngừng và dồi dào trong các thế hệ các bậc thầy tâm linh trong Giáo Hội (và có lẽ cả ngoài Giáo hội nữa). Bởi thế, từ quan điểm của thần học – nghĩa là của mạc khải về ý nghĩa của thân xác, một điều hoàn toàn mới so với truyền thống Cựu ước –, đây là những lời tạo nên một bước ngoặt. Phân tích những lời ấy, dẫu ngắn gọn, ta thấy chúng rất chính xác và trọng yếu (chúng ta sẽ còn xem xét chúng khi phân tích bản văn 1Cr 7 của thánh Phaolô). Đức Kitô nói về sự tiết dục «vì» Nước Trời. Như thế Người muốn nhấn mạnh bậc sống ấy, được người ta chọn cách có ý thức trong cuộc sống trần thế này, ở đó vốn bình thường người ta vẫn «cưới vợ lấy chồng», có một cứu cánh duy nhất có tính siêu nhiên. Nếu không có cứu cánh ấy, sự tiết dục dẫu là một lựa chọn ý thức và được quyết định cá nhân, cũng không phải điều Đức Kitô muốn nói ở trên. Khi nói về những người chọn lựa cách ý thức đời sống độc thân trinh khiết vì Nước Trời, Đức Kitô nêu lên – ít là gián tiếp – chọn lựa ấy trong đời trần thế này kết hợp với sự từ bỏ và với một nỗ lực thiêng liêng nữa.

6. Chính cứu cánh siêu nhiên ấy - «vì Nước Trời» - nhìn nhận một loạt các lí giải chi tiết hơn mà Đức Kitô trong đoạn văn ấy không liệt kê ra. Nhưng ta có thể khẳng định rằng, qua công thức ngắn gọn Người sử dụng, Người gián tiếp cho thấy tất cả những gì đã được nói đến đề tài này có trong mạc khải Kinh Thánh và Truyền Thống, tất cả những gì đã trở thành là kho tàng tâm linh phong phú của kinh nghiệm Giáo hội, trong đó bậc độc thân trinh khiết vì Nước Trời đã sinh hoa kết quả dồi dào qua bao thế hệ các môn đệ và những người theo Chúa.

Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ

---------------------------------------

[1] Thật ra, tiên tri Giêrêmia, bởi Chúa truyền lệnh cách minh nhiên, phải sống độc thân (cf. Gr 16,1-2); thế nhưng, đó chỉ là một «dấu chỉ tiên tri», biểu trưng cho sự kiện dân và nước sẽ bị từ bỏ và hủy diệt. 

[2] Như đã biết từ các nguồn ngoài Kinh Thánh, trong giai đoạn “trung ước” (intertestamentario) bậc sống độc thân trong bối cảnh của Do thái giáo được duy trì bởi một số thành viên thuộc giáo phái Essêni (cf. Giuseppe Flavio, Bell. Jud. II 8, 2: 120-121; Filone Al., Hypothet. 11, 14); thế nhưng tình trạng ấy chỉ có ở bên lề xã hội Do thái giáo chính thức và có lẽ không còn tồn tại sau đầu thế kỷ thứ II.

Trong cộng đồng Qumran bậc độc thân không bắt buộc đối với tất cả mọi người, nhưng một số thành viên giữ bậc ấy cho đến chết, đồng thời chuyển thông trên mảnh đất sống chung bình an ấy những chỉ thị của Đệ nhị luật (23,10-14) về việc giữ sự thanh sạch theo nghi thức bắt buộc trong suốt cuộc thánh chiến. Theo niềm tin của những người phái Qumran, cuộc chiến ấy kéo dài trường kì «giữa con cái của ánh sáng và con cái của bóng tối»; bởi thế, sống độc thân đối với họ là một diễn tả của tinh thần sẵn sàng chiến đấu (cf. 1 QmI 7, 5-7).

[3] Cf. 1Cr 7,25-40; cũng nên xem thêm Kh 14,4.