Ý NGHĨA CỦA SỰ BIẾT THEO KINH THÁNH TRONG CUỘC SỐNG HÔN NHÂN (bài 20) - Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II
Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II:
XX
Ý NGHĨA CỦA SỰ BIẾT THEO KINH THÁNH
TRONG CUỘC SỐNG HÔN NHÂN
(Ngày 5 tháng 3 năm 1980)
1. Cùng với những phân tích về thuở ban đầu mà Kinh thánh nói tới, chúng tôi muốn nói thêm một chút về một đoạn văn ngắn rút ra từ chương IV của Sách Sáng Thế. Muốn thế, trước hết chúng ta cần phải nhắc lại những lời của Đức Giêsu Kitô nói trong cuộc đối thoại với những người Biệt Phái (x. Mt 19 và Mc 10) [1], vì những suy tư của chúng ta ở trong phạm vi ấy. Những lời ấy liên hệ tới bối cảnh cuộc sống con người, theo đó cái chết và sự hủy hoại thân xác gắn liền với nó (như những lời St 3,19: «ngươi sẽ trở về với đất bụi») đã trở thành số phận chung của con người. Đức Kitô đã qui chiếu về «thuở ban đầu», về chiều kích nguyên thủy của mầu nhiệm tạo dựng, khi mà chiều kích này đã bị đảo lộn bởi mầu nhiệm tội lỗi (mysterium iniquitatis), và, cùng với tội lỗi, bởi cái chết. (mysterium mortis). Tội lỗi và cái chết đã bước vào lịch sử con người, một cách nào đó, qua chính tâm điểm của sự hợp nhất mà người đàn ông và người đàn bà đã tạo lập «từ thuở ban đầu», họ vốn được tạo dựng và kêu gọi trở thành «một xương một thịt» (St 2,24). Từ những suy tư ban đầu, chúng ta đã thấy rằng khi qui chiếu đến «thuở ban đầu», Đức Kitô, theo nghĩa nào đó, dẫn chúng ta đi quá giới hạn của tình trạng tội lỗi gia truyền của con người để đến tình trạng vô tội nguyên thủy. Bằng cách đó Người giúp ta khám phá được tính liên tục và sự kết nối đang có giữa hai tình trạng. Nhờ đó mà có được tấn tuồng về con người nguyên thủy, cũng như mạc khải mầu nhiệm con người cho con người lịch sử.
Điều đó cho phép chúng ta chuyển qua phân tích cuối cùng, sau khi đã làm một số phân tích liên quan tới tình trạng vô tội nguyên thủy. Đó là phân tích «sự nhận biết và sinh sản». Xét theo chủ đề, nó liên hệ gần gũi với sự chúc lành cho sự sinh sôi nảy nở trong trình thuật tạo dựng thứ nhất của con người nam và nữ (St 1,27-28). Đàng khác xét về lịch sử, nó đã được đưa vào trong khung trời của tội lỗi và sự chết. Như Sách Sáng Thế dạy (St 3), tội lỗi và sự chết đã ghi dấu trên ý thức về ý nghĩa của thân xác con người, cùng với sự đổ vỡ Giao ước thứ nhất với Đấng Tạo Hóa.
2. Trong St4, và vẫn trong bối cảnh của bản văn Giavít, chúng ta đọc thấy : «Con người (Ađam) ăn ở với Eva, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Cain. Bà nói : “Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một người”. Bà lại sinh ra Abel, em ông» (St 4,1-2). Nếu chúng ta nối kết sự kiện đầu tiên sinh ra một con người trên trái đất với «cái biết», chúng ta làm thế trên cơ sở dịch sát nghĩa bản văn. Theo đó, sự kiện vợ chồng «ăn ở» với nhau được xác định như là «biết» nhau. Thật vậy, bản dịch được trích ở đây nói : «Con người ăn ở với Eva, vợ mình», đang khi đó nếu dịch sát mặt chữ phải là : «Con người biết Eva, vợ mình», phù hợp hơn với thuật ngữ do thái (sêmít) jada‘ [2]. Người ta có thể thấy ở đây dấu hiệu của một sự nghèo nàn của ngôn ngữ cổ, thiếu các thành ngữ để xác định những dữ kiện khác nhau. Tuy nhiên, hoàn cảnh ấy vẫn rất có ý nghĩa, vì trong đó người chồng và người vợ kết hợp với nhau thâm sâu đến độ giữa họ chỉ là «một xương một thịt», hoàn cảnh đó lại được định nghĩa như là một sự «biết» nhau. Như thế, từ một hoàn cảnh xem ra rất nghèo nàn về ngôn ngữ lại xuất hiện một chiều sâu đặc biệt về ý nghĩa. Điều ấy được rút ra từ chính tất cả những ý nghĩa đã phân tích cho tới nay.
3. Hiển nhiên điều ấy cũng quan trọng đối với cách suy nghĩ «nguyên mẫu» của chúng ta về con người với thân xác có giới tính là nam là nữ của nó, tức là một thân xác có tính dục. Như thế, qua thuật ngữ «biết» được dùng ở St 4,1-2 cũng như vẫn thường được dùng trong Kinh thánh, ta thấy tương quan vợ chồng của người nam và người nữ - tức là sự kiện họ trở nên «một xương một thịt» nhờ sự khác biệt giới tính của họ - đã được nâng lên và đưa vào chiều kích đặc biệt của các ngôi vị. St 4,1-2 chỉ nói người đàn ông «biết» người đàn bà, như muốn nhấn mạnh trước hết hành động của người đàn ông. Nhưng người ta vẫn có thể nói cả hai người, đàn ông và đàn bà, cùng «biết» nhau qua thân xác và giới tính của họ. Cùng một kiểu nói như thế ta có thể đọc thấy trong cũng chương 4 của Sách Sáng thế (vd. St 4,17; 4,25). Ngôn ngữ vẫn tiếp tục được dùng thậm chí cho tới biến cố Truyền Tin trong những lời lẽ của đức Maria thành Nadarét : «Việc ấy sẽ xảy ra cách nào vì tôi không biết đến việc vợ chồng» (Lc 1,34).
4. Như thế chữ «biết» của Kinh thánh xuất hiện lần đầu tiên ở đoạn St 4,1-2. Nó diễn tả trực tiếp một đàng là ý hướng tính của con người[1] (vì đó là đặc tính của cái biết), và đàng khác, diễn tả tất cả thực tại vợ chồng sống chung và hợp nhất, trong đó người đàn ông và người đàn bà nên «một xác thịt».
Khi nói về cái «biết», dẫu là do sự nghèo nàn về ngôn ngữ, Kinh thánh cho thấy cái yếu tính sâu xa nhất của thực tại đời sống hôn nhân. Yếu tính này xuất hiện như là một yếu tố đồng thời cũng là một kết quả của các ý nghĩa ấy, dấu vết của chúng đã được cố gắng liên tục dõi theo ngay từ đầu việc nghiên cứu. Đó thật ra là một phần của ý thức về ý nghĩa của thân xác của mình. Trong St 4,1, người nam và người nữ một khi đã trở nên «một xác thịt» có kinh nghiệm đặc biệt về ý nghĩa của thân xác mình. Như thế, họ như cùng trở nên một chủ thể duy nhất của hành động và kinh nghiệm đó, dẫu rằng họ vẫn là hai chủ thể thực sự khác biệt trong sự hợp nhất ấy. Chúng ta có thể khẳng định, theo một nghĩa nào đó, rằng «người chồng biết vợ mình» hoặc cả hai vợ chồng «biết nhau». Họ mạc khải cho nhau cái «tự ngã» (cái tôi) sâu xa nhất của mình, nhờ chính giới tính khác biệt nam và nữ của mình. Như thế, quả là độc đáo, người đàn bà được «trao ban» cho người đàn ông để được biết, và người đàn ông cũng được ban cho người đàn bà để được biết.
5. Nếu phải giữ sự liên tục của những phân tích mà chúng ta đã làm cho đến nay (đặc biệt đối với những phân tích cuối cùng, trong đó con người đã được giải thích theo chiều kích trao hiến), chúng ta cần chấp nhận rằng theo sách Sáng thế, datum (dữ kiện /cái đã được ban cho khi tạo dựng) và donum (tặng phẩm /trao hiến) là như nhau.
Thế nhưng, St 4,1-2 nhấn mạnh đặc biệt đến datum. Trong hành động «biết» của vợ chồng, người nữ «được ban cho» người nam và người nam được ban cho người nữ, vì thân xác và giới tính đi trực tiếp vào trong chính cấu trúc và nội dung của cái «biết» này. Thế nên, thực tại của hành vi kết hợp vợ chồng, trong đó người nam và người nữ trở nên «một xác thịt», tự thân hàm chứa một sự khám phá mới, và theo một nghĩa nào đó là dứt khoát, về ý nghĩa của thân xác con người với giới tính nam và nữ của mình. Nhưng phải chăng bàn về khám phá ấy mà chỉ nói đến sự «sống chung về phương diện tính dục» thôi sao? Cần phải thấy rằng mỗi người, nam cũng như nữ, không chỉ là một đối tượng thụ động, được định bởi thân xác và giới tính của người ấy, và như thế có nghĩa là, được xác định «bởi thiên nhiên». Trái lại, chính vì họ là đàn ông và là đàn bà, mà mỗi người được «trao ban» cho người kia như một chủ thể duy nhất và độc đáo, như một «cái tôi», như một nhân vị. Giới tính không những quyết định về cá thể tính thể lí của con người, mà đồng thời còn xác định căn tính ngôi vị cụ thể của người ấy. Và chính trong căn tính ngôi vị cụ thể ấy, như một «cái tôi» là nam hay là nữ, mà con người được «biết», nhờ những lời xác minh của St 2,24: «người đàn ông... kết hợp với vợ mình và cả hai nên một xương một thịt». Cái «biết» mà St 4,1-2 và mọi bản văn Kinh thánh sau đó nói tới, chạm tới những cội rễ thâm sâu nhất của căn tính cụ thể ấy của người đàn ông hay người đàn bà, vốn được định hình nhờ giới tính của họ.Điều đó có nghĩa là biết một ngôi vị vừa duy nhất vừa độc đáo.
Bởi thế, quả là đã không vô ích khi suy tư về nội dung phong phú của bản văn kinh thánh trích dẫn và động từ «biết»; dù xem ra thiếu sự xác định chính xác từ ngữ, nhưng nó đã giúp ta dừng lại ở chiều sâu rộng của một khái niệm mà ngôn ngữ thời đại chúng ta, dẫu rất chính xác mà lại hay khiếm khuyết.
Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch
------------------
[1] Cần lưu ý sự kiện sau đây. Trong cuộc trao đổi với những người Biệt Phái (Mt 19,7-9; Mc 10,4-6), Đức Kitô đã trình bày trong quan điểm liên hệ tới việc thực hành Luật Môsê về cái gọi là «ly thư» (giấy ly dị). Những lời tuyên bố của Đức Kitô «vì lòng các ông đã ra chai đá» phản ánh không chỉ «chuyện các tâm hồn», mà còn phản chiếu toàn bộ hệ thống Lề Luật thực tế của Cựu ước, vốn luôn tìm «sự thỏa hiệp» với con người trong lãnh vực rất tế nhị này.
[2] «Biết» (jada‘), trong ngôn ngữ Kinh thánh, không chỉ có nghĩa là một cái biết thuần trí thức, nhưng còn có nghĩa là một kinh nghiệm cụ thể, chẳng hạn như kinh nghiệm về đau khổ (x. Is 53,3), về tội lỗi (Kn 3,13), về chiến tranh và hòa bình (Tl 3,1; Is 59,8). Từ kinh nghiệm này còn kéo theo một phán đoán luân lí: «biết điều thiện biết điều ác» (St 2,9-17).
Cái «biết» bước vào trong lãnh vực của các mối tương quan liên vị khi nó liên hệ tới tình liên đới trong gia đình (Đnl 33,9) và đặc biệt các tương quan vợ chồng. Chính trong khi nói tới hành động vợ chồng, thuật ngữ ấy nhấn mạnh tới tình phụ tử của những nhân vật nổi danh và con cái của họ (St 4,1.25; 4,17; 1Sm 1,19), như những dữ kiện hợp pháp cho gia phả, là điều mà truyền thống tư tế (sự thừa tự trong dân Israel) đã rất coi trọng.
Nhưng cái «biết» cũng có thể có nghĩa chỉ mọi mối quan hệ tính dục khác, kể cả những quan hệ bất hợp pháp (x. Ds 31,17; St 19,5; Tl 19,22).
Trong hình thức tiêu cực, động từ này chỉ việc kiêng khem các quan hệ tính dục, đặc biệt khi nói tới các cô gái trinh nữ (x. vd. 1V 2,4; Tl 11,39). Trong lãnh vực này, Tân ước dùng hai người do thái, khi nói về Giuse (Mt 1,25) và Maria (Lc 1,34).
Một ý nghĩa đặc biệt về khía cạnh quan hệ hiện sinh của cái «biết» khi chủ thể hay đối tượng của nó là chính Thiên Chúa (vd. Tv 139; Gr 31, 34; Hs 2,22; và Ga 14,7-9; 17,3).