TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC CỦA CÁC NGHỆ SĨ TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỆ THUẬT LIÊN HỆ TỚI CHỦ ĐỀ THÂN XÁC CON NGƯỜI
1. Trong diễn từ trên núi Đức Kitô đã loan báo những lời lẽ mà chúng ta đã dành cho một chuỗi nhiều suy tư. Trong khi giải thích cho các thính giả của Người ý nghĩa thực của giới răn: «Chớ ngoại tình», Đức Kitô đã diễn tả điều đó như sau: «Nhưng Thầy bảo anh em: ai nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì đã phạm tội ngoài tình với người ấy trong lòng rồi» (Mt 5,28). Dường như những lời lẽ trên đây cũng có liên hệ đến các lãnh vực rộng lớn của văn hóa con người, nhất là lãnh vực về các hoạt động nghệ thuật, điều chúng ta đã bàn đến sau cùng trong các chương trước đây. Đây chính là lúc dành phần cuối cùng của suy tư cho vấn đề về mối tương quan giữa đạo đức (ethos) của hình ảnh – hay của những miêu tả – và đạo đức của cái nhìn và nghe, của đọc hay những hình thức tri giác khác, qua đó ta gặp gỡ nội dung của tác phẩm nghệ thuật hay sản phẩm nghe-nhìn hiểu theo nghĩa rộng.
2. Và giờ đây chúng ta trở lại một lần nữa vấn đề đã gợi lên trước đây. Thân xác con người với giới tính được phơi bày trần trụi có thể chăng và trong mức độ nào trở thành đề tài của tác phẩm nghệ thuật và bởi thế có thể trở thành đối tượng của «truyền thông» xã hội. Câu hỏi này hơn nữa còn liên hệ tới nền văn hóa mang tính «đại chúng» hiện nay, vốn gắn liền với kĩ nghệ nghe-nhìn. Thân xác con người có thể làm người (vật) mẫu – đề tài như thế được hay chăng, đang khi chúng ta biết rằng làm thế thân xác trở thành một khách thể (như một đồ vật) vô danh «không có chọn lựa» như đã được phân tích trước đây và điều đó kèm theo một mối nguy nghiêm trọng ngấm ngầm đe dọa toàn thể ý nghĩa đặc thù của thân xác của người nam và người nữ, ý nghĩa đó xuất phát từ đặc tính ngôi vị của chủ thể người và đặc tính «hiệp thông» của các tương quan liên vị?
Có thể nói thêm rằng những diễn ngữ như « pornografia/pornovisione» («khiêu dâm») – dẫu từ nguyên của nó đã có từ cổ xưa – chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ mới về sau này. Từ ngữ latinh truyền thống thường sử dụng ob-scaena dùng để chỉ tất cả những gì không đáng có trước mắt của khán giả, những gì phải tiếp xúc cách thận trọng phù hợp, những gì không thể được phơi bày trước con mắt người ta mà thiếu suy xét.
3. Đặt ra câu hỏi trên đây chúng ta nhận thấy rằng thật ra trong suốt các thời đại văn hóa và hoạt động nghệ thuật, thân xác con người đã và vẫn còn là đề tài-vật mẫu cho các công trình nghệ thuật liên quan đến thị giác, cũng như toàn thể lãnh vực tình yêu nam-nữ, và vấn đề «trao hiến cho nhau» diễn tả qua thân xác người nam và người nữ đã và vẫn sẽ còn là đề tài cho tiểu thuyết văn chương. Những truyện như thế cũng có trong Kinh thánh, nhất là trong bản văn Diễm tình ca, mà trong một dịp khác thích hợp chúng ta sẽ quay lại. Thật ra, cần phải nhận thấy rằng trong lịch sử văn chương hay nghệ thuật, trong lịch sử của văn hóa nhân loại, đề tài này xuất hiện đặc biệt thường xuyên và đặc biệt quan trọng. Quả thật, nó liên hệ đến một vấn đề mà tự thân là lớn và quan trọng. Chúng ta đã bày tỏ điều đó ngay từ đầu trong những suy tư của mình, bằng cách theo dấu chân của các bản văn Kinh thánh chúng cho ta biết chiều kích đúng đắn của vấn đề này. Đó là, phẩm giá của con người qua thân xác nam và nữ tính của mình, và ý nghĩa hôn phối của giới tính khác biệt, được ghi khắc trong toàn bộ cấu trúc bên trong – và đồng thời cũng hữu hình – của nhân vị.
4. Qua những suy tư trước đây, chúng tôi không có ý hoài nghi quyền hạn trên đề tài này. Những suy tư ấy chỉ nhằm cho thấy hoạt động liên quan đến đề tài ấy gắn liền với một trách nhiệm đặc biệt có bản tính không chỉ thuộc nghệ thuật, mà còn thuộc đạo đức nữa. Người nghệ sĩ nào đảm nhận đề tài này dù thuộc bất cứ lãnh vực nào của nghệ thuật hay nhờ đến kĩ thuật nghe-nhìn, cũng phải ý thức sự thật toàn vẹn của đối tượng (khách thể), của toàn thể thang giá trị nối kết với nó; người ấy phải không chỉ quan tâm đến chúng cách chung chung (trừu tượng) nhưng chính mình phải sống những giá trị ấy cách đúng đắn. Điều này cũng tương ứng không kém với nguyên lí về «lòng trong sạch» kia, trong một số trường hợp nhất định nguyên lí ấy cần được chuyển từ phạm trù hiện sinh của thái độ và hành vi sang phạm trù ý hướng tính trong sáng tạo nghệ thuật hay sản xuất hàng loạt các công trình ấy.
Xem ra quá trình sáng tạo ấy có xu hướng không chỉ khách thể hóa (và theo một nghĩa nào đó cũng hướng đến một thứ «duy vật hóa» mới) người/vật mẫu, nhưng đồng thời, còn hướng đến diễn tả trong quá trình khách thể hóa đó cái ta có thể gọi là ý tưởng sáng tạo của nhà nghệ sĩ, chính qua đó người ấy bộc lộ thế giới các giá trị nội tâm của mình, và đời sống thật về đối tượng của mình. Trong quá trình này, có một sự biến thái đặc trưng của người mẫu hay chất liệu và, nhất là, của những gì là con người, là thân xác con người trong toàn thể sự thật giới tính đàn ông hay đàn bà của nó. (Từ quan điểm này, như chúng ta đã lưu ý, có một sự khác biệt rõ ràng, ví dụ như, giữa một bức tranh hay tác phẩm điêu khắc với các ảnh chụp hay phim điện ảnh). Khán giả, được mời đến thưởng lãm các tác phẩm của nhà nghệ sĩ, tiếp xúc không chỉ với đối tượng đã bị khách thể hóa, và theo nghĩa nào đó, với người/vật mẫu hay chất liệu đã bị một kiểu «duy vật hóa» mới, nhưng đồng thời, khán giả còn tiếp xúc với sự thật của đối tượng mà tác giả, trong quá trình «duy vật hóa» nghệ thuật, diễn tả được bằng các phương tiện của riêng mình.
5. Theo dòng thời gian trải qua các thời đại, kể từ thời cổ đại – và nhất là trong thời kì vĩ đại của nghệ thuật Hy lạp cổ điển – có những tác phẩm nghệ thuật về chủ đề con người khỏa thân, và chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật ấy giúp người xem tập chú vào sự thật toàn diện của con người, vào phẩm giá và vẻ đẹp của thân thể – hàm ẩn cả vẻ đẹp «siêu nhục cảm» (soprasensuale) – đầy nam tính và nữ tính của nó. Những tác phẩm này mang một yếu tố như tàng ẩn có khả năng thăng hoa dẫn dắt người xem, qua thân xác, chạm tới huyền nhiệm ngã vị toàn thể của con người. Tiếp xúc với những tác phẩm ấy, chúng ta không cảm thấy mình bị nội dung của chúng khống chế theo «cái nhìn thèm muốn» điều diễn văn trên núi nói tới, nhưng theo nghĩa nào đó ta học được ý nghĩa hôn phối của thân xác, vốn tương thích mà cũng là thước đo của một «tâm hồn trong sạch». Nhưng cũng có những tác phẩm nghệ thuật, và có lẽ thường là những sản phẩm (liên quan đến nghệ thuật), khơi dậy sự bất bình trong lãnh vực cảm thức nhân vị về con người – không phải do đối tượng của chúng, bởi lẽ thân xác con người tự thân luôn luôn có một phẩm giá bất khả nhượng – nhưng do phẩm chất hoặc cách thức sản xuất, tái tạo, trình diễn nghệ thuật như thế nào đó. Cách thức hay phẩm chất đó như thế nào có thể được quyết định bởi nhiều nhân tố khác nhau của tác phẩm hay của sự sản xuất, cũng như của nhiều hoàn cảnh khác, thường có tính chất kĩ thuật hơn nghệ thuật.
Hiển nhiên là nhờ tất cả những yếu tố này mà, theo nghĩa nào đó, chính ý hướng căn bản của tác phẩm nghệ thuật hay của sản phẩm kĩ thuật tương ứng chạm đến được người xem, cũng như người nghe hay người đọc. Nếu như cảm thức nhân vị của chúng ta tỏ ra bất bình hay bất đồng, đó là vì trong ý hướng căn bản đó, cùng với việc khách thể (sự vật) hóa con người và thân xác con người, người ta còn khám phá thấy rằng thân xác con người trong tác phẩm hay sản phẩm nghệ thuật ngày nay không tránh khỏi bị hạ thấp xuống hàng đồ vật, đối tượng cho sự «thụ hưởng», nhằm thỏa mãn cho chính dục vọng. Và điều đó tỏ ra nghịch cùng phẩm giá của con người ngay cả trên bình diện của ý hướng nghệ thuật và ý hướng sản xuất. Cần phải liên hệ cùng sự việc ấy trong các lãnh vực khác nhau của hoạt động nghệ thuật – theo nét đặc thù tương ứng – cách tương tự như cho các kĩ thuật nghe-nhìn khác nhau.
6. Thông điệp Sự sống con người (Humanae vitae) của đức Phaolô VI (s.22) nhấn mạnh cần phải «tạo một bầu khí thuận lợi cho việc giáo dục đức khiết tịnh»; và nói thế ngài còn có ý khẳng định rằng sống thân xác con người trong toàn thể sự thật giới tính nam và nữ của nó phải phù hợp với phẩm giá của thân xác ấy và ý nghĩa của nó trong sự xây dựng sự hiệp thông các ngôi vị. Ta có thể nói rằng đấy là một trong những chiều kích nền tảng của văn hóa con người, hiểu như là một sự khẳng định tôn vinh tất cả những gì là nhân văn (tức thuộc về nhân tính). Như thế, chúng ta đã dành đôi nét phác họa này cho vấn đề, nói cách tóm lược, có thể được gọi là vấn đề về đạo đức (ethos) của hình ảnh. Đó là hình ảnh dùng vào việc «hữu hình hóa» con người ở phạm vi nhỏ, và là hình ảnh cần được hiểu theo nghĩa ít nhiều trực tiếp. Hình ảnh điêu khắc hay hội họa «diễn tả (con người) qua hình ảnh»; trình diễn sân khấu kịch hay vũ nhạc kịch (múa ballet) cách khác cũng «diễn tả qua hình ảnh», và điện ảnh (phim) cũng thế diễn tả điều đó cách khác; cả tác phẩm văn chương theo kiểu của nó cũng có xu hướng gợi lên những hình ảnh trong tâm trí người đọc, nhờ trí tưởng tượng và kí ức phong phú của con người. Bởi thế, điều mà ở đây chúng ta gọi là nền «đạo đức của hình ảnh» không thể được xem xét bằng cách rút ra từ thành phần liên quan gọi là «đạo đức của cái nhìn». Giữa hai thành phần đó là toàn bộ quá trình truyền thông, độc lập với các phạm vi rộng lớn mô tả sự truyền thông này, mà trường hợp ở đây luôn là truyền thông «xã hội».
7. Việc tạo bầu khí thuận lợi cho giáo dục đức khiết tịnh gồm hai yếu tố này; có thể nói nó liên hệ đến một sự thông lưu lẫn nhau giữa hình ảnh và cái nhìn, giữa đạo đức của hình ảnh và đạo đức của cái nhìn. Cũng như việc tạo ra hình ảnh, theo nghĩa rộng và với nhiều khác biệt, ràng buộc tác giả là nhà nghệ sĩ hay nhà sản xuất không chỉ về mặt mĩ học mà còn về mặt đạo đức, cũng thế, «cái nhìn», hiểu theo cùng một sự loại suy rộng, ràng buộc người thụ nhận tác phẩm hay sản phẩm.
Hoạt động nghệ thuật chân thực và có trách nhiệm muốn vượt qua tình trạng vô danh của thân xác con người như thứ một đồ vật (đối tượng) «không lựa chọn», bằng cách tìm kiếm (như đã làm trước đây), nhờ nỗ lực sáng tạo, một lối diễn tả nghệ thuật như thế sự thật về con người nơi thân xác người nữ và người nam, và đẩy trách nhiệm về phía người thưởng lãm và, trong phạm vi lớn hơn, về phía từng người thụ lãnh tác phẩm. Việc quyết định tự mình có cố gắng tiếp cận sự thật ấy không, hay chỉ dừng lại như là một người «hưởng thụ» hời hợt, tức là chỉ như một kẻ lợi dụng gặp gỡ một thân xác-chủ đề vô danh để hưởng thú nhục dục (tự thân là hành động phản hồi lại đối tượng một cách chính xác là «không chọn lựa»), là tùy ở người xem hay người thụ lãnh.
Chúng ta chấm dứt chương quan trọng suy tư về thần học thân xác này ở đây: chúng ta đã khởi đi từ những lời của Đức Kitô trong diễn từ trên núi, là những lời có giá trị cho con người thuộc mọi thời, con người «lịch sử», và cho mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên suy tư về thần học thân xác chưa đầy đủ nếu như chúng ta chưa xem xét những lời khác nữa của Đức Kitô, những lời trong đó Người nại đến sự phục sinh tương lai. Chúng ta sẽ dành Phần III để xem xét những lời đó.
Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch
Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch