Thần học thân xác của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (44,45)

Thần học thân xác của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (44,45)

 

gài đã dựng nên họ có nam có nữ” 

THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II

XLIV
CÁC GIÁ TRỊ TIN MỪNG
VÀ CÁC BỔN PHẬN CỦA TÂM HỒN CON NGƯỜI
 
1. Trong tất cả các chương trước đây của phần thứ hai này chúng ta đã phân tích cách riêng biệt các nhân vị của diễn từ trên núi, trong đó Đức Kitô đã nhắc đến «tâm hồn» («lòng») con người. Như chúng ta đã biết, những lời của Người thúc đẩy chúng ta phải dấn thân. Đức Kitô nói: «Anh em đã nghe Luật dạy rằng : chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi» (Mt 5,27-28). Nhắc đến tâm hồn như vậy làm nổi rõ chiều kích nội giới của con người, chiều kích con người nội tâm, là chiều kích riêng của đạo đức học, và hơn nữa của thần học về thân xác. Sự thèm muốn xuất hiện trong lãnh vực của dục vọng xác thịt, đồng thời là một thực tại thuộc nội giới và có tính thần học, một thực tại cách nào đó được mọi con người «lịch sử» kinh nghiệm. Và chính con người này (cho dẫu người ấy không biết đến lời của Đức Kitô) phải không ngừng tự chất vấn «lòng» mình. Lời của Đức Kitô làm cho câu hỏi đó trở nên hết sức rõ ràng: lòng con người bị kết án, hoặc là, được mời gọi hướng đến điều thiện hảo? Và câu hỏi này giờ đây chúng tôi có ý đem ra xem xét để suy tư và phân tích cho đến tận cùng, liên kết với đoạn Tin mừng cô đọng nhưng dứt khoát, chứa đầy nội dung thần học, nhân học và đạo đức học như thế.

Một câu hỏi thứ hai được nêu lên tương tự nhưng mang tính «thực hành» hơn: Con người, một khi đã đón nhận lời của Đức Kitô nói trong diễn từ trên núi, tức là con người đã chấp nhận nền đạo đức (ethos) của Tin mừng, và đặc biệt chấp nhận trong lãnh vực này, «có thể» hành động làm sao và «phải» hành động như thế nào?

2. Qua những gì chúng ta đã xét cho đến nay, con người này tìm được câu trả lời, ít là gián tiếp, cho hai câu hỏi: người ấy «có thể» hành động như thế nào, nghĩa là, người ấy có thể dựa vào cái gì trong «nơi sâu kín» của lòng mình, nơi là nguồn mạch của mọi hành vi «nội giới» và «ngoại giới» của mình? Và, câu hỏi thứ hai là, người ấy «phải» làm như thế nào? Có nghĩa là, những giá trị biết được trong «thang (giá trị)», qua mạc khải diễn từ trên núi, hình thành nên một nghĩa vụ cho ý chí, cho «tâm hồn», cho những khao khát và lựa chọn của con người, cách nào? Những giá trị ấy «câu thúc» con người như thế nào trong hành động, trong cách sống, nếu như chúng (một khi đã được nhận thức) đã «nhúng» con người vào trong tâm tưởng và, cách nào đó, trong «cảm thức» rồi? Những câu hỏi này rất có ý nghĩa cho sự «thực hành» của con người, chúng cho thấy một nối kết hữu cơ của chính sự «thực hành» («praxis») với nền đạo đức (ethos). Một luân lí sống động luôn luôn là một nền đạo đức của sự thực hành do con người.

3. Đối với những câu hỏi trên đây người ta có thể trả lời nhiều cách khác nhau. Thật vậy, trong quá khứ cũng như hiện tại có những câu trả lời khác nhau. Điều đó được xác nhận trong bối cảnh phong phú của văn chương. Ngoài những giải đáp tìm thấy trong đó, ta cũng cần phải xét tới vô số những giải đáp mà con người cụ thể tự đưa ra cho chính mình trước những câu hỏi đó. Đó là những giải đáp trong đời sống của mỗi người do lương tâm của họ, ý thức và cảm thức luân lí của họ thường xuyên đưa ra. Chính trong không gian này mà nền đạo đức và sự thực hành không ngừng thấm nhập vào nhau. Ở đây các nguyên tắc riêng rẽ (không chỉ là nguyên tắc lí thuyết) được trở nên sống động. Đó là những qui tắc của luân lí cùng với những lí do của chúng mà các nhà luân lí đã soạn ra và phổ biến, và cả những qui tắc do mỗi cá nhân riêng rẽ đề ra (hẳn là có kết hợp với công trình của các nhà luân lí và khoa học), họ như là tác giả và là chủ thể trực tiếp của khoa luân lí thực tế, như là những đồng tác giả của lịch sử của khoa luân lí ấy, từ đó xác định trình độ của chính khoa luân lí, của sự tiến bộ hay thoái suy của nó. Tất cả những điều ấy ở khắp mọi nơi và luôn luôn tái xác nhận «con người lịch sử», là kẻ mà Đức Kitô một lần đã từng nói chuyện khi Người loan báo Tin lành Phúc âm trong diễn từ trên núi, trong đó Người có nói nói câu Mt 5,27-28: «Anh em đã nghe Luật dạy rằng : chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi».

4. Tuyên bố của Matthêu được trình bày hết sức cô đọng, liên hệ đến tất cả những gì đã được viết ra trong văn chương thế giới về chủ đề này. Và có lẽ chính điều này đã tạo nên sức mạnh của nó trong lịch sử của nền đạo đức. Đồng thời cần lưu ý đến sự kiện là lịch sử nền đạo đức tuôn chảy trong một lòng sông với đa dạng các dòng nước riêng có khi xa cách có khi gần gũi nhau. Con người «lịch sử» luôn định giá «lòng dạ» mình, theo cách thức riêng, cũng giống như nó phán xét «thân xác» mình. Như thế đó, con người ấy chuyển vị từ cực bi quan đến cực lạc quan, từ khuynh hướng thanh luyện khắt khe đến kiểu sống buông thả của thời nay. Cần nhớ điều đó để nền đạo đức của diễn từ trên núi luôn có được một nét trong sáng phải có trong hành vi và thái độ sống của con người. Với mục đích ấy chúng ta còn cần phải phân tích thêm chút nữa.

5. Suy tư về ý nghĩa của những lời Đức Kitô nói trong Mt 5,27-28 sẽ không đầy đủ nếu chúng ta không dừng lại một chút ở điều mà người ta có thể gọi là âm hưởng của những lời ấy trong lịch sử của tư tưởng nhân loại và sự đánh giá nền đạo đức. Âm hưởng luôn là một sự biến dạng tiếng nói và lời do tiếng ấy diễn tả. Kinh nghiệm cho biết rằng đôi khi những biến đổi ấy đầy sức hấp dẫn nhiệm mầu. Trong trường hợp chúng ta đang bàn luận, có lẽ xảy ra cái gì đó ngược lại. Thật vậy, người ta đã tước mất đi tính đơn giản và sâu sắc của những lời Đức Kitô, thay vào đó đã gán cho nó một ý nghĩa xa lạ với những gì lời ấy muốn diễn tả, một ý nghĩa xét cho cùng thậm chí trái nghịch hẳn với lới ấy. Ở đây chúng ta nhớ đến tất cả những gì đã xuất hiện bên lề Kitô giáo dưới danh nghĩa chủ thuyết Manikê [1] và cũng đã đi vào trong lòng Kitô giáo trong chính lãnh vực thần học và đạo đức học về thân xác. Chúng ta biết rằng dưới hình thức nguyên thủy thuyết Manikê, xuất hiện ở Đông Phương bên ngoài môi trường của Kinh thánh và thoát thai từ thuyết nhị nguyên Mazđaít, khẳng định nguồn gốc của sự ác là ở nơi vật chất, nơi thân xác và tuyên bố kết án tất cả những gì là xác thịt nơi con người. Và bởi vì trong con người tính xác thịt được biểu lộ đặc biệt qua giới tính, cho nên thuyết này cũng kết án luôn cả hôn nhân và sự sống chung vợ chồng, ngoài những lãnh vực khác trong đó tính xác thịt được bộc lộ ra qua hiện hữu và hành động.

6. Đối với những người mới thoạt nghe, hệ thống chủ thuyết rõ là khắc nghiệt đó xem ra đồng điệu với những lời nghiêm khắc Đức Kitô nói trong Mt 5,29-30 về chuyện «móc mắt» hoặc «chặt tay» nếu những phần thân thể này trở thành cớ cho sự sa ngã hay dịp tội. Do sự giải thích thuần «chất thể» về các phát biểu này, người ta có thể bắt nắm một nhãn quan manikê nơi những tuyên bố của Đức Kitô nói về con người kẻ đã «ngoại tình trong lòng... bởi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn». Ngay cả trường hợp này, chú giải theo hướng manikê có xu hướng kết án thân xác như cội nguồn thực của sự ác, vì theo chủ thuyết Manikê thân xác vừa ẩn chứa vừa bộc lộ nguyên lí «hữu thể» của sự ác. Người ta đã cố phát hiện và đôi khi cũng thấy trong Tin mừng sự kết án đó, họ thấy điều đó nơi nào diễn tả chỉ một mình yêu sách đặc biệt về tinh thần con người.

Nên biết rằng sự kết án này đã và luôn có thể là một cái cớ cho sự né tránh những đòi hỏi trong Tin mừng của Đức Kitô, Đấng «biết mỗi người nghĩ gì ở trong lòng» (Ga 2,25). Trong lịch sử không thiếu những bằng chứng cho thấy điều đó. Chúng ta đã phần nào có dịp (và sẽ còn có dịp) minh chứng trong chừng mực nào đòi hỏi đó có thể xuất hiện chỉ như một khẳng định thân xác – chứ không phủ nhận hay kết án – nếu không muốn nói là phải đi đến một khẳng định còn chín chắn và sâu sắc hơn cả về mặt khách quan và chủ quan. Và một khẳng định như thế về giới tính, là nam và nữ tính, của con người, như là chiều kích ngôi vị của thân xác, là điều mà những lời Đức Kitô nói theo Mt 5,27-28 phải dẫn đến. Đó là ý nghĩa đạo đức học đúng đắn của những lời này. Chúng in dấu, trên những trang Tin mừng, một chiều kích đạo đức đặc thù để rồi sau đó in dấu trên cuộc sống con người.

Chúng ta sẽ cố bàn lại chủ đề này trong những suy tư kế tiếp. 

--------------------------------------

[1] Thuyết Manikê chứa đựng và làm chín muồi những yếu tố đặc trưng của các loại thuyết «Ngộ đạo» («Gnosi»), tức nhị nguyên thuyết vốn quan niệm có hai nguyên lí đồng vĩnh cửu và hoàn toàn đối nghịch nhau, và quan niệm một thứ cứu độ chỉ thực hiện được nhờ nhận thức (gnosi) hay tự hiểu biết chính mình. Trong mọi huyền thoại manikê chỉ có một nhân vật chính và một hoàn cảnh luôn lặp lại, đó là, linh hồn sa đọa bị giam hãm trong tù ngục của vật chất và được giải thoát bởi sự hiểu biết (ngộ đạo).

Hoàn cảnh lịch sử hiện tại là tiêu cực đối với con người, bởi đó là một tình trạng hỗn hợp tạm thời và bất thường giữa tinh thần và vật chất, giữa cái thiện và cái ác. Điều đó giả định có một tình trạng nguyên thủy trước đó, khi đó hai bản thể ấy tách biệt và độc lập nhau. Vì thế, có ba «thời kì»: «thời khởi nguyên» khi hai bản thể nguyên thủy ấy tách biệt; «thời trung gian» là thời hiện tại đánh dấu tình trạng hỗn hợp; và «thời sau cùng» khi trở lại tình trạng tách biệt nguyên thủy, là sự cứu độ, hàm chứa một ly phân hoàn toàn giữa Tinh Thần và Vật Chất.

Vật Chất, tự nền tảng, là dục vọng, là sự thèm muốn khoái lạc xấu xa, là bản năng sự chết, có thể ví như (nếu không đồng nhất với) dục tình, «libido». Đó là một lực lượng muốn hướng tới tấn công Ánh sáng; là một vận động vô trật tự, thèm muốn thú tính, cục súc, thuộc tiềm thức.

Ađam và Evà đã được sinh ra từ hai quỷ thần. Nhân loại chúng ta được sinh ra từ hệ quả của những hành động ghê tởm ăn thịt đồng loại và dâm dục, và còn lưu giữ trên mình những dấu tích của nguồn gốc quỷ ma ấy, là xác thân, đó là hình dạng súc vật của các «vị thần địa ngục» và là dục tình «libido» nó thúc giục con người cặp đôi lại với nhau rồi sinh sản ra thêm, và như thế có nghĩa là tiếp tục giam giữ linh hồn sáng láng mãi mãi trong tù ngục.

Nếu muốn được cứu thoát, con người phải tìm cách giải thoát cái «tự ngã sống động» của mình (noûs) khỏi nhục thể và thân xác. Bởi vì Vật Chất có hình thức diễn tả cao nhất của nó nơi dục vọng, nên tội lỗi nguy tử là ở nơi sự giao hợp tính dục (thông dâm), đó là điều thô bỉ và cục súc nhất biến con người thành dụng cụ và đồng lõa với Ác thần bởi hành động sinh sản.

Những người được tuyển chọn làm thành nhóm người hoàn hảo với nhân đức đặc trưng là sống khổ chế, kiêng khem, tuân theo ba «dấu niêm ấn» sau đây: «niêm ấn trên miệng» cấm chửi rủa và truyền phải kiêng thịt thà, máu huyết, rượu nho hoặc mọi thức uống có men, và kể cả phải ăn chay; «niêm ấn trên tay» truyền phải tôn trọng sự sống («Ánh sáng») có trong các cơ thể, hạt giống hay tinh dịch, trong các cây cỏ và cấm hái trái, nhổ cây, hủy diệt sự sống con người và loài vật; «niêm ấn nơi lòng dạ» truyền phải hoàn toàn tiết chế (x. H. Ch. Puech, Le Manichéisme: son fondateur – sa doctrine [Musée Guimet, t. LVI], Paris 1949, tt. 73-88; H. Ch. Puech, Le Manichéisme, in Histoire des Religions [Encyclopédie de la Pleiade] II, Gallimard 1972, tt. 522-645; J. Ries, Manichéisme, in Catholicisme hier, aujourd’hui, demain, 34, Letouzey-Ané, Lille 1977, tt. 314-320).
 

XLV
GIÁ TRỊ CỦA THÂN XÁC
THỰC HIỆN THEO Ý ĐỊNH CỦA TẠO HÓA

1. Tâm điểm của suy tư trong các chương của phần hai này từ bấy lâu nay là lời tuyên bố sau đây của Đức Kitô trong diễn từ trên núi: «Anh em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo: ai nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy (hướng về người ấy) rồi» (Mt 5,27-28). Những lời này có ý nghĩa cốt yếu đối với toàn bộ thần học về thân xác ẩn chứa trong giáo huấn của Đức Kitô. Bởi thế, hiểu và chú giải cho đúng những lời này quả thật là rất quan trọng. Trong bài suy tư trước, chúng ta đã thấy rằng thuyết Manikê, trong cách diễn tả nguyên thủy hay về sau của nó, trái ngược với những lời này.

Quả thật, người ta không thể rút ra được, trong đoạn văn diễn từ trên núi mà ta phân tích ở đây, một sự «kết án» hay buộc tội nào đối với thân xác. Dẫu rằng có thể người ta thấy lấp ló ở đó một sự kết án lòng con người. Thế nhưng, những suy tư của chúng ta cho đến nay cho thấy rằng, nếu những lời Mt 5,27-28 ấy có kết án điều gì, đối tượng của kết án nhắm đến trước hết là con người dục vọng. Những lới đó không nhằm kết án tâm hồn con người cho bằng là đặt nó dưới một phán quyết hay, đúng hơn, kêu gọi nó xét mình hay tự kiểm thảo xem mình có sa ngã trong dục vọng xác thịt hay không. Đi sâu vào ý nghĩa của những lời tuyên bố Mt 5,27-28 , chúng ta phải nhận thấy rằng sự phán quyết về «thèm muốn», xét như là một hành động của dục vọng xác thịt, có hàm chứa trong lời đó, tự thân không phủ nhận, fx nhưng đúng hơn, nó khẳng định về thân xác, như là yếu tố cùng với tinh thần xác định chủ thể tính thực sự của con người và thông dự vào phẩm giá ngôi vị của con người. Thế nên, phán quyết về dục vọng xác thịt có một ý nghĩa cơ bản khác với ý nghĩa mà hữu thể luận về thân xác của thuyết Manikê chủ trương hoặc ý nghĩa tất yếu được rút ra từ đó.

2. Thân xác với giới tính, là đàn ông hay đàn bà, từ «thuở ban đầu» được mời gọi trở nên là một biểu lộ của tinh thần. Nó cũng trở nên như thế qua sự kết hợp hôn phối của người nam và người nữ, khi họ kết hợp thân mật nên «một xương một thịt». Chỗ khác (x. Mt 19,5-6) Đức Kitô bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của sự hợp nhất đó, nhờ đó thân xác với giới tính nam-nữ, đảm nhận lấy giá trị của một dấu chỉ mà, theo nghĩa nào đó, nó mang tính bí tích. Hơn nữa, khi lưu ý canh phòng dục vọng xác thịt, Người diễn tả cùng một chân lí về chiều kích hữu thể học của thân xác và xác nhận ý nghĩa đạo đức học của nó, ý nghĩa đó phù hợp với toàn thể giáo huấn của Người. Ý nghĩa đạo đức học này không có điểm gì chung với thái độ kết án thân xác của thuyết Manikê, trái lại nó thấm sâu vào mầu nhiệm sự «cứu chuộc thân xác», điều mà thánh Phaolô viết trong Thư gửi tín hữu Rôma (x. Rm 8,23). Nhưng sự «cứu chuộc thân xác» không hàm ý: cội rễ sự ác như thuộc tính căn bản nằm trong thân xác con người, mà chỉ muốn nói lên tình trạng tội lỗi của con người, bởi đó mà con người đã đánh mất đi ý thức minh nhiên về ý nghĩa hôn phối của thân xác, trong đó con người có sự tự chủ nội tâm và tự do tinh thần. Điều muốn nói (như đã lưu ý trước đây) ở đây là con người đã mất «một phần», và cách tiềm tàng, ý thức về ý nghĩa minh bạch ấy: ý thức về ý nghĩa hôn phối của thân xác, một cách nào đó, lẫn lộn với dục vọng và chấp nhận dễ dàng để bị nuốt chửng trong dục vọng ấy.

3. Trong công việc chú giải thích hợp những lời của Đức Kitô theo Mt 5,27-28, cũng như việc «thực hành» (sự triển khai tuần tự trong thực tế nền đạo đức đích thực của diễn từ trên núi) người ta phải tuyệt đối loại bỏ những yếu tố thuộc xu hướng Manikê trong tư duy cũng như trong thái độ sống (động thái). Thái độ sống theo chủ thuyết Manikê hẳn sẽ dẫn tới sự «hủy diệt» thân xác, nếu không thực sự thì ít là trong ý hướng, hướng tới việc chối bỏ giá trị của tính dục con người, giá trị của nam tính và nữ tính của nhân vị. Cùng lắm, chủ trương này chỉ chấp nhận thân xác với tính dục (hay giới tính nam/nữ) của nó trong chừng mực phục vụ cho một «nhu cầu» giới hạn trong sinh sản mà thôi. Ngược lại, trên nền tảng những lời dạy của Đức Kitô trong diễn từ trên núi, nền đạo đức kitô giáo có đặc trưng là làm biến đổi tâm thức và thái độ sống của nhân vị, của người nam cũng như người nữ, sâu xa tới mức như biểu lộ và thể hiện giá trị của thân xác và tính dục, mà theo ý định nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa chúng nhằm để phục vụ cho «sự hiệp thông các ngôi vị» vốn là nền tảng sâu xa nhất của đạo đức học và văn hóa nhân loại. Trong khi đối với não trạng manikê, thân xác và tính dục, có thể nói, là một «phản giá trị», thì ngược lại, đối với Kitô giáo, chúng luôn là một «giá trị được quí trọng chưa đủ», như tôi sẽ giải thích sâu xa hơn về sau. Thái độ sống Kitô giáo cho thấy hình thức phải thể hiện nền đạo đức như thế nào,một nền đạo đức trong đó mầu nhiệm «cứu chuộc thân xác» đâm rễ sâu trong mảnh đất «lịch sử» đời người vốn đã bị nhiễm tội. Điều đó được diễn tả qua công thức thần học định nghĩa «tình trạng» của con người «lịch sử», đó là tình trạng mang bản tính sa ngã nhưng đồng thời được cứu chuộc (status naturae lapsae simul ac redemptae).

4. Lời của Đức Kitô trong diễn từ trên núi (Mt 5,27-28) cần được giải thích dưới ánh sáng của chân lý đó về con người[1]. Nếu những lời ấy có chất chứa một «sự kết án» nào đó đối với lòng con người, thì chúng càng hướng về đó mà kêu nài nhiều hơn. Sự xấu luân lí nằm ở chỗ «thèm muốn» vốn sinh ra từ dục vọng xác thịt không kiềm chế, ẩn núp trong lòng. Kết án sự xấu ấy đồng thời cũng là lời kêu gọi vượt thắng nó. Và nếu chiến thắng sự ác phải phát xuất từ chỗ rời xa nó (bởi đó mà có những lời nghiêm khắc trong văn mạch Mt 5,27-28), thì vấn đề chỉ là lánh xa hành vi gian ác (trong trường hợp đang bàn, đó là hành vi «dục vọng» nội tâm) và không bao giờ được chuyển tính tiêu cực của hành vi đó lên đối tượng. Một dịch chuyển kiểu đó có nghĩa là đã chấp nhận cách nào đó – có lẽ do không ý thức đầy đủ – «phản giá trị» của thuyết Manikê. Đó không phải là một chiến thắng thật sự và sâu sắc đối với hành vi xấu xa, vốn là xấu bởi yếu tính luân lí, xấu tự bản tính thiêng liêng. Đúng hơn, tiềm ẩn ở đó một mối nguy to lớn, đó là biện minh cho hành động của mình mà hi sinh đối tượng (đó chính là sai lầm cốt yếu của nền đạo đức của chủ thuyết Manikê)[2]. Hiển nhiên là Đức Kitô trong Mt 5,27-28 đòi hỏi phải cắt đứt với «dục vọng» xấu xa (hay cái nhìn thèm muốn vô trật tự), thế nhưng lời tuyên bố của Người không cho phép nghĩ rằng đối tượng của nỗi thèm muốn ấy (tức là người phụ nữ gánh chịu cái nhìn dục vọng ấy) là một sự xấu xa. (Đôi khi trong một vài bản văn loại sách «khôn ngoan» xem ra thiếu sự minh định này).

5. Bởi thế, chúng ta phải phân biệt giữa «kết án» và «kêu gọi». Bởi vì sự kết án dục vọng xấu xa cũng đồng thời là một lời kêu gọi phải chiến thắng nó, cho nên sự chiến thắng đó phải kết hợp làm một với nỗ lực khám phá giá trị đích thực của đối tượng hầu «phản giá trị» của Manikê không bám rễ được vào trong con người, trong ý thức và ý chí của con người. Quả thật, «dục vọng» xấu xa (hành động mà Đức Kitô nói tới trong Mt 5,27-28) khiến chủ thể nhân vị hướng về đối tượng với thái độ «không quí trọng đầy đủ giá trị của đối tượng». Nếu như trong những lời của diễn từ trên núi mà ta đang phân tích (Mt 5,27-28) tâm hồn con người bị «kết án» đầy dục vọng (hoặc giả như tâm hồn được cảnh giác đối với dục vọng ấy), thì đồng thời cũng nhờ chính những lời ấy tâm hồn được mời gọi khám phá ý nghĩa trọn vẹn của điều mà trong hành vi dục vọng làm nên một «giá trị chưa được quí trọng đủ». Như chúng ta biết, Đức Kitô đã nói: «Ai nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi». «Ngoại tình trong lòng» có thể và phải được hiểu như là hành động «làm biến chất giá trị» (devalorizzazione), hay như là làm nghèo nàn đi một giá trị đích thực, như là một sự tước mất đi cái phẩm giá nơi người phụ nữ vốn biểu lộ qua nữ tính của người ấy như một giá trị cốt yếu. Những lời của Mt 5,27-28 hàm chứa một lời nhắc nhớ khám phá giá trị đó và phẩm giá đó, tái khẳng định chúng. Có lẽ chỉ khi những lời trích dẫn của Mathhêu được hiểu như thế thì ý nghĩa mới đạt tới đúng tầm mức của chúng.

Để kết luận những dòng khảo sát ngắn gọn này, một lần nữa chúng ta cần nhận định rằng cách hiểu và đánh giá thân xác và tính dục con người theo kiểu Manikê về căn bản là hoàn toàn xa lạ với Tin mừng, không phù hợp với ý nghĩa đúng đắn của những lời của Đức Kitô trong diễn từ trên núi. Lời nhắc nhở phải làm chủ dục vọng xác thịt xuất phát trực tiếp từ sự khẳng định phẩm giá ngôi vị của thân xác và tính dục, và chỉ phục vụ cho phẩm giá đó. Những người nào muốn hiểu những lời này theo viễn tượng Manikê sẽ phạm một sai lầm cơ bản.

Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch

[1] Sự ác luân lí vốn gắn với hành động do ngôi vị thực hiện, gắn liền với hành động «thèm muốn». Chứ không gắn với đối tượng được khát khao theo cách đó, tức là thân xác con người.
[2] Bản văn không dễ. Nếu như chính đối tượng (cụ thể ở đây là thân xác con người) là xấu chứ không phải là hành động của ngôi vị, thì luôn luôn có nguy cơ là hành động của ta được miễn truy cứu đạo đức.