Thần học thân xác của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (34,35)

Thần học thân xác của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II (34,35)

 

“Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ”
 
THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II
 
XXXIV

DIỄN TỪ TRÊN NÚI
CHO NHỮNG NGƯỜI THỜI ĐẠI CHÚNG TA

1. Đang khi tiếp tục suy tư phần thứ hai này, chúng ta luôn trở về với bài diễn từ trên núi, hay chính xác hơn, trở về với câu nói: «Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòngđã ngoại tình với người ấy rồi» (Mt 5,27-28). Đức Giêsu ở đây đã viện dẫn đến «tâm hồn».

Trong cuộc tọa đàm với những người Pharisêu, Đức Giêsu đã nại đến cái «thuở ban đầu» (x. các phân tích trước đây), và nói đến tờ chứng thư ly dị với những lời sau đây: «Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu» (Mt 19,8). Hẳn là câu nói này bao hàm một lời kết án. Theo tập quán đạo đức (ethos) của dân Cựu ước, «lòng chai dạ đá» [1] muốn nói điều đã tạo nên tình trạng đối nghịch với ý định nguyên thủy của Đức Chúa là Thiên Chúa được bày tỏ nơi St 2,24. Chính đây là chỗ ta cần phải tìm chiếc chìa khóa để giải thích toàn bộ lề luật của Israel về hôn nhân và, theo nghĩa rộng hơn, về toàn bộ các mối quan hệ giữa người nam và người nữ. Khi nói «lòng chai dạ đá», Đức Kitô đã kết án, có thể nói là, «chủ thể, tức là nội tâm của con người» chịu trách nhiệm về việc đã làm thay đổi Lề Luật. Trong diễn từ trên núi (Mt 5,27-28), Người nhắc tới «tâm hồn» (chữ «lòng»), nhưng những lời ấy ở đây xem ra không chỉ là kết án.

2. Chúng ta còn phải suy nghĩ về những lời ấy một lần nữa, bằng cách thử tối đa đặt những lời ấy vào chiều kích «lịch sử» của chúng. Những gì đã phân tích cho tới nay nhằm làm rõ «con người của dục vọng» trong yếu tố di truyền của nó, tại điểm khởi đầu lịch sử của nó được dệt nên với thần học. Phân tích đó là một dẫn nhập lớn, chủ yếu có tính nhân học, dẫn vào công trình còn đang phải đảm nhận. Bước kế tiếp của việc phân tích sẽ mang tính chất đạo đức. Diễn từ trên núi, và nhất là đoạn Kinh thánh mà chúng ta đã chọn như tâm điểm để phân tích, là thành phần của tuyên bố về một nền đạo đức (ethos) mới: đạo đức của Phúc âm (ethos del Vangelo). Trong giáo huấn của Đức Kitô, nó được nối kết sâu xa với ý thức về «thuở ban đầu» (nguồn khởi), nối kết với mầu nhiệm tạo dựng với tính chất đơn sơ và phong phú nguyên thủy của nó. Và đồng thời, nền đạo đức mà Đức Kitô tuyên bố trong diễn từ trên núi thực tế là hướng đến «con người lịch sử», là con người vốn đã trở thành con người dục vọng. Quả thực, dục vọng là di sản của toàn thể nhân loại, và «tâm hồn» con người thực sự đã thông dự vào đó. Đức Kitô biết «có gì trong lòng mỗi con người» (Ga 2,25) [2] và Người không thể nói cách nào khác ngoài với một ý thức giống như thế. Từ cái nhìn này, những lời Mt 5,27-28 không chủ yếu là một lời lên án cho bằng là một phán đoán: một phán đoán thực tế về lòng dạ con người, một phán đoán vừa có nền tảng nhân học vừa có tính đạo đức trực tiếp. Đối với nền đạo đức (ethos) của Phúc âm đó là một phán đoán căn bản.

3. Trong diễn từ trên núi, Đức Kitô nói trực tiếp với những người thuộc một xã hội nhất định. Ngay cả vị Tôn sư cũng thuộc về xã hội ấy, thuộc về dân ấy. Bởi thế, cần phải tìm trong những lời Đức Kitô nói một tham chiếu liên hệ đến những sự kiện, những hoàn cảnh, những định chế đã trở thành quen thuộc hằng ngày. Chúng ta cần phân tích, ít là một cách toát lược, những tham chiếu ấy để ý nghĩa đạo đức học của những lời Mt 5,27-28 nổi rõ hơn. Tuy nhiên, những lời ấy Đức Kitô cũng nói cách gián tiếp mà thực sự với mọi con người «lịch sử» (hiểu từ này trước hết theo nghĩa thần học). Và con người này chính là «con người của dục vọng», một con người mà Đức Kitô biết rõ nơi thâm sâu tâm hồn («Quả thật Người biết có gì trong lòng mỗi con người»: Ga 2,25). Những lời lẽ của diễn từ trên núi giúp ta liên hệ với kinh nghiệm nội tâm của con người này ở mọi nơi mọi thời, trong mọi hoàn cảnh văn hóa và xã hội khác nhau. Con người thời đại hôm nay cũng cảm thấy mình được mời gọi đích danh qua những lời ấy, không kém con người «xưa kia» Đức Kitô đã trực tiếp nói chuyện.

4. Tính phổ quát của Phúc âm biểu lộ qua điều này, đây không hề là một sự tổng quát hóa. Có lẽ chính trong lời tuyên bố này của Đức Kitô mà ta đang phân tích, điều đó biểu hiện cách đặc biệt rõ ràng. Nhờ lời tuyên bố này, con người thuộc mọi thời và mọi nơi cảm thấy mình được gọi, một cách thích đáng, cụ thể, độc đáo: bởi vì chính Đức Kitô gọi tới «tâm hồn» con người, mà điều này thì dù sao cũng không thể tổng quát hóa được. Bằng phạm trù «tâm hồn» mỗi người được xác định một cách còn riêng tư hơn khi gọi đích danh. Mỗi người được xác định một cách duy nhất và độc đáo, trong nhân tính của mình «từ bên trong» tâm hồn.

5. Hình ảnh con người của dục vọng liên hệ trước hết đến cõi thâm sâu nhất của mình [3]. Lịch sử «tâm hồn» con người sau khi nguyên tổ phạm tội được viết ra dưới áp lực của dục vọng với ba mặt của nó. Dục vọng ấy cũng có liên hệ tới hình ảnh sâu xa của nền đạo đức (ethos) nơi nhiều bằng chứng lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, cái cõi thâm sâu ấy lại là sức mạnh quyết định thái độ ứng xử «bên ngoài», cũng như hình thức của các cấu trúc và định chế của đời sống xã hội. Nếu từ những cấu trúc và định chế này chúng ta rút ra nội dung của nền đạo đức (ethos) trong những định thức lịch sử khác nhau, chúng ta sẽ luôn gặp bình diện thuộc cõi rất riêng tư này, gặp chính hình ảnh của con người nội tâm. Quả thật, đây là thành phần cốt yếu nhất. Những lời của Đức Kitô trong diễn từ trên núi, và nhất là những lời của Matthêu 5,27-28, cho thấy rõ điều đó. Không có nghiên cứu nào về đạo đức (ethos) của con người mà lại có thể dửng dưng bỏ qua điều này.

Bởi vậy, trong những suy tư kế tiếp, chúng tôi sẽ cố gắng phân tích cách đặc biệt hơn lời phát biểu của Đức Kitô : «Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòngđã ngoại tình với người ấy rồi» (hoặc: «người ấy đã làm cho nàng thành một kẻ ngoại tình trong lòng mình rồi»).

Để hiểu rõ hơn bản văn này, chúng ta sẽ phân tích trước hết các thành phần đơn lẻ của nó, để rồi có được một tầm nhìn bao quát sâu sắc hơn. Chúng ta sẽ không chỉ xét đến những đối tượng người nghe lúc bấy giờ đã nghe bài giảng trên núi tận nơi, nhưng còn xét tới trong khả năng của mình những thính giả ngày nay, những con người thời đại.

-------------------------------------
[1] Từ hy lạp sklērokardía đã được bản Bảy Mươi tạo ra dùng để diễn tả điều mà trong tiếng Hípri có nghĩa là «không cắt bì tâm hồn» (x. vd.: Đnl 10,16; Gr 4,4; Hc 3,26t.) và trong bản dịch Tân ước, từ ấy xuất hiện chỉ một lần duy nhất (Cv 7,51).

«Không cắt bì» có nghĩa là «ngoại đạo», «vô liêm sỉ», «sống xa cách Giao ước với Thiên Chúa», «không cắt bì tâm hồn» diễn tả sự cứng đầu bất trị chống đối Thiên Chúa. Lời của phó tế Stêphanô xác nhận điều đó: «Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần: Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy» (Cv 7,51).

Bởi thế nên hiểu từ ngữ «lòng chai dạ đá» trong ngữ cảnh đó.

[2] X. Kh 2,23: «... Đấng dò thấu lòng dạ con người ...»; Cv 1,24: «Lạy Chúa, Chúa thấu suốt lòng dạ mọi người...» (kardiognostēs).

[3] «Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là cái làm cho con người ra ô uế...» (Mt 15,19-20). 
 

XXXV

NỘI DUNG CỦA GIỚI RĂN
«CHỚ NGOẠI TÌNH»

1. Lời khẳng định của Đức Kitô trong diễn từ trên núi về «tội ngoại tình» và về sự «thèm muốn» mà Người gọi là «tội ngoại tình trong lòng» cần được phân tích khởi đi từ những lời đầu tiên. Đức Kitô nói rằng: «Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình...» (Mt 5,27). Người đã nghĩ đến một giới răn của Thiên Chúa, là giới răn thứ sáu và là thành phần của Tảng Bia Lề Luật Thứ Hai mà Mosê đã lãnh nhận từ Đức Chúa là Thiên Chúa.

Trước hết, chúng ta hãy tự đặt mình vào vị trí của người nghe trực tiếp bài diễn từ trên núi, những người đã nghe Đức Kitô nói. Họ là những người con của dân tuyển chọn, dân đã đón nhận «Lề Luật» từ Đức Chúa là Thiên Chúa, và đón nhận cả các «Tiên tri», vốn là những người qua các thế kỉ đã thường xuyên khiển trách họ về lối sống và những vấp phạm của họ đối với Lề Luật. Nhưng Người còn nói đến một giải thích Lề Luật kiểu phàm nhân đã xóa mất ý nghĩa đúng đắn của thiện và ác xuất phát từ ước muốn của Thiên Chúa Đấng Lập Pháp. Thật vậy, Luật trước hết là một phương tiện cần thiết để làm cho «đức công chính» nên dư dật hơn (lời của Mt 5,20 trong bản dịch cổ). Đức Kitô muốn đức công chính đó phải «trổi vượt đức công chính của các kinh sư và những người phái Pharisêu». Người không chấp nhận lối giải thích qua các thế kỉ họ đã tạo ra cho nội dung đích thực của Lề Luật, bởi lẽ trong chừng mực nào đó họ đã đặt nội dung ấy, cũng chính là ý định và ý muốn của Nhà Lập Pháp, bên dưới những yếu đuối và giới hạn của ý chí con người, những cái đó chính do dục vọng mà ra. Đó là một cách giải thích theo nố (theo từng trường hợp cụ thể) được đặt bên trên cái nhìn luân lí nguyên thủy gắn với Luật Thập Giới. Nếu Đức Kitô có thay đổi gì đối với nền đạo đức (ethos), Người làm thế là để tái lập sự trong sáng căn bản cho lời giải thích: «Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn» (Mt 5,17). Điều kiện để kiện toàn là phải có sự hiểu biết đúng đắn. Và điều này được ta đem áp dụng cho giới răn «chớ ngoại tình».

2. Ai theo dõi qua những trang sách Cựu ước lịch sử của dân tuyển chọn từ thời Abraham, sẽ thấy có rất nhiều sự kiện xác nhận giới răn này được sống như thế nào, và kèm theo sự thực hành ấy là cách giải thích Lề Luật theo nố. Trước hết, ai cũng biết lịch sử của Cựu ước là sân khấu trên đó chế độ hôn nhân một vợ một chồng thường được né tránh cách có hệ thống. Hôn nhân một vợ một chồng phải có một ý nghĩa nền tảng đối với việc hiểu lệnh truyền «chớ ngoại tình». Ước muốn về con cái, muốn có nhiều con, xui khiến người ta từ bỏ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, đặc biệt là vào thời các Tổ phụ. Khát vọng này thật sâu xa, và sinh sản, vốn là mục đích cốt yếu của hôn nhân, là việc rất hiển nhiên, đến nỗi những người vợ nào yêu chồng mà lại không thể sinh cho chồng một đứa con, chủ động yêu cầu chồng mình, dù rất yêu thương vợ, «đi lại» với một người đàn bà khác, ví dụ như nữ tì tức là người nữ nô lệ của mình, để người đàn bà ấy sinh con «trên đầu gối» nàng. Cụ thể đây là trường hợp của của bà Sara vợ ông Abraham (x. St 16,2), hoặc trong trường hợp như của bà Rakhel vợ ông Giacóp (x. St 30,3).

Hai câu chuyện này phản chiếu bầu khí luân lí trong đó người ta thực hành Thập Giới. Chúng minh họa cách thức nền đạo đức (ethos) của Do thái đã được chuẩn bị để đón nhận giới răn «chớ ngoại tình», và việc áp dụng giới răn đó người ta thấy có trong truyền thống cổ xưa nhất của dân tộc này. Qủa thực, quyền bính của các Tổ phụ vốn là cao nhất trong Israel và có đặc tính tôn giáo. Nó liên kết chặt chẽ với Giao ước và Lời Hứa.

3. Giới răn «chớ ngoại tình» không thay đổi truyền thống này. Tất cả cho thấy rằng sự phát triển về sau của truyền thống không bị giới hạn vào những lí do (nhất là những lí do ngoại lệ) đã hướng dẫn cách sống của Abraham và Sara, hay của Giacop và Rakhel. Nếu lấy làm mẫu những gương mặt đại biểu nổi tiếng nhất của Israel sau Môsê như các vua Đavít và Salomon, ta thấy bức tranh đời sống của họ xác nhận thực sự có hôn nhân đa thê – và điều đó rõ ràng được lập nên bởi những lí do thuộc dục vọng.

Trong câu chuyện Đavít, kẻ có nhiều vợ, người ta ngỡ ngàng không chỉ vì ông đã chiếm đoạt vợ của một người thuộc hạ của mình, mà cả vì ông ý thức rõ mình đã phạm tội ngoại tình. Sự kiện này cũng như sự kiện nhà vua ăn năn sám hối đã được mô tả cách chi tiết và gợi cảm (x. 2Sm 11,2-27). Người ta hiểuở đây ngoại tình chỉ như là chiếm đoạt vợ của người khác, còn trường hợp chiếm hữu một người đàn bà khác làm vợ lẽ bên cạnh người vợ đầu tiên thì không. Cả truyền thống của Cựu ước cho thấy rằng các thế hệ tiếp nối của dân tuyển chọn, nền đạo đức (ethos) của họ, chưa bao giờ ý thức về yêu sách thực sự của hôn nhân một vợ một chồng, vốn là hệ luận căn bản và tất yếu của giới răn «chớ ngoại tình».

4. Trên nền hậu cảnh này, người ta cần phải hiểu mọi cố gắng nhằm đưa nội dung đặc thù của giới răn «chớ ngoại tình» vào trong bối cảnh luật pháp đã ban hành. Các sách Kinh thánh, trong đó toàn bộ luật Cựu ước được ghi lại rộng khắp, xác nhận điều đó. Nếu xem xét luật ấy sát mặt chữ, người ta sẽ thấy rằng luật chống lại tội ngoại tình cách dứt khoát và không khoan nhượng, sử dụng những phương cách rất cực đoan, kể cả xử tử hình (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Thế nhưng, đang khi xử như thế luật pháp vẫn thực sự ủng hộ chế độ hôn nhân đa thê, bằng cách hợp pháp hóa nó hoàn toàn, ít là cách gián tiếp. Như thế, ngoại tình chỉ bị kết tội trong chừng mực xác định và trong phạm vi những tiền đề sau cùng bao hàm hình thức cốt yếu của đạo đức Cựu ước»

Ngoại tình ở đây được hiểu trước hết (và có lẽ là nghĩa duy nhất) như là sự vi phạm quyền tư hữu của một người, hay đúng hơn, là quyền tư hữu của một người đàn ông, xét về đối tượng là một (trong số những) người phụ nữ là vợ hợp pháp của người ấy. Ngoại tình không có nghĩa như được hiểu từ quan điểm của đơn hôn (hôn nhân một vợ một chồng) như do Đấng Tạo Hóa thiết lập. Giờ đây chúng ta biết rằng Đức Kitô đã viện dẫn đến «thuở ban đầu» vì nó liên quan tới chính luận điểm này (x. Mt 19,8).

5. Hơn nữa, việc Đức Kitô bênh đỡ người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và bảo vệ chị quả là rất có ý nghĩa. Người nói với những người kết án chị: «Ai trong các ông sạch tội cứ việc lấy đá mà ném trước đi» (Ga 8,7). Khi những người ấy đã bỏ đi, Người nói với chị phụ nữ đó: «Chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa» (Ga 8,11). Như vậy, Đức Kitô xác nhận rõ ràng ngoại tình là một tội lỗi. Nhưng khi Người nói với những người muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình, Người đã không viện tới các khoản Luật của Israel mà chỉ viện tới lương tâm. Sự phân định tốt xấu vốn được ghi tạc trong lương tâm con người có thể sâu sắc hơn và đúng đắn hơn nội dung một điều luật pháp lí.

Như chúng ta đã thấy, lịch sử của dân Thiên Chúa trong Cựu ước (chúng ta đã thử minh họa chỉ qua một vài ví dụ) đã diễn ra ở bên ngoài nội dung qui phạm của giới răn «chớ ngoại tình» mà Thiên Chúa muốn; có thể nói, nó chỉ trôi qua bên cạnh giới răn ấy. Đức Kitô muốn uốn nắn lại sự lệch lạc này. Những lời Người công bố trong diễn từ trên núi phát xuất từ đây.
 
Louis Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch