SỰ TRAO HIẾN TẶNG PHẨM XÁC THÂN CHO NHAU TẠO NÊN MỘT MỐI HIỆP THÔNG ĐÍCH THỰC (bài 17) - Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II

SỰ TRAO HIẾN TẶNG PHẨM XÁC THÂN CHO NHAU TẠO NÊN MỘT MỐI HIỆP THÔNG ĐÍCH THỰC (bài 17) - Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II

Thần học về Thân xác của đức Gioan Phaolô II:

XVII

SỰ TRAO HIẾN TẶNG PHẨM XÁC THÂN CHO NHAU
TẠO NÊN MỘT MỐI HIỆP THÔNG ĐÍCH THỰC

(Ngày 6 tháng 2 năm 1980)

1. Chúng ta tiếp tục khảo sát cái «thuở ban đầu» ấy, điều mà Đức Giêsu đã nhắc tới trong khi trao đổi với những người Pharisêu về chủ đề hôn nhân. Suy tư ấy đòi hỏi chúng ta phải vượt qua bên kia ngưỡng cửa của lịch sử con người và đạt tới tình trạng trong trắng nguyên thủy. Để tìm hiểu ý nghĩa của sự trong trắng ấy, theo cách nào đó chúng ta đã đứng trên nền tảng của kinh nghiệm của con người «lịch sử», dựa trên nền móng là chứng từ của tâm hồn, của ý thức (tâm thức).

2. Dựa theo phương pháp «hậu nghiệm lịch sử» chúng ta cố gắng xây dựng lại tính đặc thù của tình trạng trong trắng nguyên thủy ẩn chứa trong kinh nghiệm về thân xác của nhau và về ý nghĩa hôn phối của thân xác ấy, theo những gì mà St 2,23-25 đã chứng nhận. Hoàn cảnh mô tả ở đây cho ta thấy cái kinh nghiệm hồng phúc về ý nghĩa của thân xác, mà trong mầu nhiệm tạo dựng con người có đạt thấu được, có thể nói, là nhờ sự bổ sung cho nhau giữa hai yếu tố nam và nữ. Thế nhưng, ở nguồn cội của kinh nghiệm này phải có sự tự do nội tâm, một sự tự do của trao hiến hợp nhất đặc biệt với sự trong trắng đó. Ước muốn của con người từ thuở ban đầu là trong trắng, và như thế, họ dễ dàng trao hiến thân xác (với khác biệt giới tính) cho nhau như tặng phẩm ngôi vị. Bởi thế, sự trong trắng mà St 2,25 xác nhận có thể được định nghĩa như là sự trong trắng của kinh nghiệm về thân xác của nhau. Câu : «cả hai người, nam và nữ, trần truồng mà không cảm thấy xấu hổ» diễn tả sự trong trắng trong kinh nghiệm trao hiến thân xác mình cho nhau, một sự trong trắng khơi dậy ước muốn trong lòng trao cho nhau tặng phẩm chính con người của mình, đó là sự cụ thể hóa ý nghĩa hôn phối của giới tính (nam và nữ). Vậy, để hiểu được sự trong trắng của kinh nghiệm trao thân cho nhau, chúng ta phải cố làm rõ sự trong trắng trong sự trao hiến cho nhau tặng phẩm ngôi vị hệ tại ở điều gì. Quả thật, sự trao nhận cho nhau ấy là nguồn suối thật của kinh nghiệm về sự trong trắng.

3. Chúng ta có thể nói rằng một tâm hồn trong trắng trong khi trao hiến cho nhau (nghĩa là với ý hướng ngay lành) hệ tại ở sự người này «chấp nhận» người kia, một sự chấp nhận tha nhân tương hỗ như thế tương hợp với chính bản chất của tặng phẩm. Bằng cách đó, sự trao tặng cho nhau tạo nên mối hiệp thông các ngôi vị. Bởi thế, vấn đề là ở chỗ «tiếp đón» tha nhân và «chấp nhận» tha nhân. Đó chính là vì trong mối quan hệ tương hỗ này, điều mà St 2,23-25 nói tới, người đàn ông và người đàn bà trở thành tặng phẩm cho nhau, họ trao hiến cho nhau thật sự và cụ thể nhờ thân xác, một thân xác với giới tính là nam hay là nữ, của họ. Bởi thế, vấn đề là ở chỗ «chấp nhận» hay «tiếp đón» đó. Đó là điều diễn tả và bảo vệ ý nghĩa của sự trao hiến khi trần truồng trước mặt nhau và làm cho phẩm giá của tặng phẩm ngôi vị đối với nhau trở nên sâu sắc hơn. Phẩm giá đó tương ứng cách sâu xa với sự kiện Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng (và vẫn còn tiếp tục tạo dựng) con người nam và nữ «vì chính họ». Sự trong trắng của «tâm hồn» và sự trong trắng của kinh nghiệm mang ý nghĩa là ta tham dự vào ý muốn hiện thực muôn đời miên viễn của Thiên Chúa.

Điều nghịch lại với sự «tiếp đón» hay «chấp nhận» tha nhân ấy như một tặng phẩm trao hiến có lẽ là sự tư hữu hóa chính tặng phẩm và như thế biến thành một cuộc đổi chác qua lại và thậm chí biến tha nhân thành một thứ «đồ vật cho tôi hưởng dùng» (đối tượng của dục vọng, của «chiếm hữu bất chính», vv...).

Chúng ta sẽ không bàn đến ở đây cách riêng biệt những phản đề (cái nghịch lại với sự trao hiến) rất đa dạng và có thể thấy trước. Thế nhưng, trong bối cảnh của đoạn St 2,23-25, cần nhận thấy rằng một hành động cưỡng bức tha nhân phải trao hiến và xem tha nhân thuần túy như một «đồ vật cho tôi hưởng dùng» như thế là đánh dấu một khởi đầu cho sự xấu hổ. Quả thật, sự xấu hổ tương ứng với một đe dọa làm tổn thương sự trao hiến trong nơi thân mật riêng tư và biểu lộ một tâm hồn sa ngã hết trong trắng trong kinh nghiệm về nhau.

4. Theo St2,25, «người đàn ông và người đàn bà không cảm thấy xấu hổ». Điều này cho phép ta đi tới kết luận rằng việc trao thân cho nhau được thực hiện (với toàn thể nhân tính, tức là với cả xác-hồn và giới tính khác biệt, của họ) trong điều kiện đặc trưng nội tâm (sự trong trắng) của hành vi tự hiến và tiếp nhận tha nhân như tặng phẩm được bảo toàn. Hai chức năng này của sự trao đổi hỗ tương gắn kết với nhau thật sâu xa trong toàn bộ quá trình «tự hiến». Hành động trao ban và đón nhận đi sâu vào trong nhau đến độ chính khi cho là nhận, và nhận trở thành cho đi.

5. St 2,23-25 cho phép ta suy diễn ra điều này, đó là: người đàn bà, kẻ được Đấng Tạo Hóa «trao ban» cho người đàn ông trong mầu nhiệm tạo dựng, nhờ sự trong trắng nguyên thủy nàng được «tiếp nhận», tức là được chấp nhận bởi người đàn ông như quà tặng. Về điểm này, bản văn kinh thánh hoàn toàn sáng sủa và rõ ràng. Đồng thời, sự đón nhận và chính cách thức đón nhận nàng từ phía người đàn ông có thể nói trở thành như là một sự trao hiến đầu tiên. Nói cách khác, người đàn bà, trong khi trao hiến mình (từ thuở ban đầu của mầu nhiệm tạo dựng khi người đàn bà được Đấng Tạo Thành trao ban cho người đàn ông) cũng đồng thời «tái khám phá chính bản thân mình», nhờ sự kiện nàng đã được chấp nhận và tiếp đón và nhờ cách thức mà người đàn ông đã đón nhận nàng. Thế đó, nàng khám phá lại chính mình chính khi mình hiến thân («nhờ sự chân thành tự hiến chính bản thân mình», Gaudium et spes 24), khi qua nhân tính và nữ tính của mình nàng được đón nhận như Đấng Tạo Hóa đã yêu thương tạo dựng nàng «vì chính nàng». Khi được đón nhận như thế toàn thể phẩm giá của một tặng phẩm được bảo đảm, nhờ hiến dâng bản thân trong toàn thể sự thật con người và thân xác nữ tính như thực tại vốn có của nàng, nàng đạt tới cõi thâm sâu riêng tư nhất của con người mình và sở hữu mình toàn vẹn. Ngoài ra, việc tìm gặp lại chính mình khi hiến thân trở nên một suối nguồn cho một sự tự hiến mới như hoa trái của một ý thức về tặng phẩm càng ngày càng đậm sâu hơn. Điều ấy phát triển là nhờ nội tâm sẵn có khuynh hướng trao hiến và trong điều kiện gặp được một sự đón nhận cũng như thế hay thậm chí sâu sắc hơn.

6. Trình thuật thứ hai xem ra muốn gán cho con người (người nam) từ «thuở ban đầu» chức năng của kẻ trước hết đón nhận tặng phẩm (x. nhất là St 2,23). Người phụ nữ «thuở ban đầu» được phó giao cho chàng chăm sóc, để ý, ân cần để «tâm» đến. Ngược lại, người nam theo nghĩa nào đó phải bảo đảm tiến trình trao nhận sự trao hiến, sự trao ban và sự đón nhận xâm nhập vào bên trong của nhau, và chính nhờ sự đi lại đó tạo nên mối hiệp thông các ngôi vị.

Nếu như, trong mầu nhiệm tạo dựng người phụ nữ là kẻ đã «được ban» cho người đàn ông, thì về phần mình, người đàn ông, khi đón nhận nàng như tặng phẩm với toàn vẹn sự thật về con người và nữ tính cuả nàng và nhờ thế mà làm cho nàng phong phú, cũng được nên phong phú. Người đàn ông được phong phú không chỉ nhờ nàng (kẻ đã hiến ban cho chàng chính con người với nữ tính của mình), mà còn nhờ sự trao hiến chính mình. Sự trao hiến từ phía người đàn ông đáp trả sự trao hiến của người phụ nữ, đối với chàng, làm cho mình thêm phong phú. Thật vậy, nó bộc lộ điều như là bản chất đặc thù của nam tính của chàng, điều ấy qua thực tại thân xác với giới tính của mình người ấy đạt tới cõi riêng tư sâu thẳm nhất của sự «sở hữu chính mình». Nhờ đó, chàng có khả năng trao hiến chính mình cũng như đón nhận tặng phẩm tha nhân. Bởi thế, người đàn ông không những đón nhận tặng phẩm, nhưng đồng thời còn được đón nhận bởi người nữ như một tặng phẩm, khi chàng biểu lộ cái yếu tính thiêng liêng nam giới tiềm ẩn của mình ra, cùng với toàn thể sự thật của thân xác và giới tính của mình. Bởi được đón nhận và đón tiếp như thế tặng phẩm nam tính của mình, chàng được phong phú thêm. Kế đến, sự đón nhận ấy (ở đó người đàn ông tìm gặp lại chính mình qua sự «chân thành tự hiến») trở thành ở nơi chàng một nguồn suối cho người phụ nữ được giàu thêm cách sâu sắc hơn. Sự trao đổi ấy có qua có lại (tính tương hỗ). Và trong đó những hiệu quả phát sinh cho nhau giữa sự «chân thành trao hiến» và «tìm gặp lại chính mình» được bộc lộ ra và tăng trưởng.

Bằng cách ấy, theo dấu vết của «cái hậu nghiệm lịch sử» - và nhất là theo dấu vết của trái tim con người – chúng ta có thể tái tạo và như là thiết lập lại sự trao hiến qua lại cho nhau tặng phẩm nhân vị, vốn đã được mô tả trong bản văn cổ hết sức phong phú và sâu sắc của sách Sáng thế.
 
 
Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch